Kinh Nghiệm Hướng dẫn Núi một mang tên thường gọi khác là gì Chi Tiết
You đang tìm kiếm từ khóa Núi một mang tên thường gọi khác là gì được Update vào lúc : 2022-04-26 16:26:19 . Với phương châm chia sẻ Thủ Thuật về trong nội dung bài viết một cách Chi Tiết 2022. Nếu sau khi tìm hiểu thêm Post vẫn ko hiểu thì hoàn toàn có thể lại phản hồi ở cuối bài để Ad lý giải và hướng dẫn lại nha.Núi Bà Đen cao 986 mét so với mực nước biển và sẽ là cao nhất Đông Nam bộ. Theo sách “Gia Định Thành Thông Chí”, tên gốc của núi Bà Đen là Bà Dinh. Những bậc kỳ lão địa phương thì nhận định rằng tên gốc là núi Một. Đến khoảng chừng nửa thế kỷ XVIII mới xuất hiện tên thường gọi núi Bà Đênh, sau gọi trại dần thành núi Bà Đen. Cũng có người gọi là núi Điện Bà.
Cũng theo những bậc kỳ lão, tên thường gọi núi gắn sát với những giai thoại ly kỳ của Bà Đen, người được vua Gia Long phong thánh hiệu "Linh Sơn Thánh Mẫu".
Ngày nay, cứ đến dịp rằm tháng giêng (âm lịch) thường niên, cả triệu lượt khách hành hương khắp nơi tìm về núi Bà Đen để viếng, bái Linh Sơn Thánh Mẫu.
Trèo núi cấm không được kêu… mệt!
Ngày nay, con phố bộ lên núi được góp vốn đầu tư xây dựng một cầu thang dựng đứng, đi vòng vèo quanh những tảng đá từ chân núi lên đến mức chùa. Chỉ cần mất 1 giờ để leo đến Điện Bà. Trước năm 1975, khách thập phương muốn lên chùa phải leo trèo qua những tảng đá dưới những tán rừng đầy thú dữ suốt nửa ngày mới đến nơi. Thuở đó, việc đi viếng Bà là cả một chuyến phiêu lưu, mạo hiểm đúng cả nghĩa bóng lần nghĩa đen. Dù vậy, nổi tiếng rất linh, cứ đến rằm tháng Giêng (âm lịch) thường niên, khách thập phương vẫn lũ lượt leo núi viếng Bà.
Một góc chùa ngày thường.Hồi đó, có một giao ước bất thành văn rằng: Khi leo núi cấm thốt tiếng "mệt". Những đoàn người hì hục leo núi, thỉnh thoảng hỏi nhau: "Mệt không?" Cả đoàn người phải đồng thanh hô lớn: "Khỏe!", tuy nhiên ai cũng thở ra đằng tai. Tiếng hô "khỏe" Viral từ người mới đến chân núi lan dài đến người leo đến gần Điện Bà thành một thứ âm thanh vang dội núi rừng.
Cho đến tận ngày này giao ước này vẫn tồn tại. Họ tin rằng, đi viếng mà than thở mệt nhọc, sẽ không còn được Bà ban điều khấn xin, thậm chí còn còn gặp nguy hiểm khi leo núi?
Bà Hai Đông, 82 tuổi, là cựu giáo viên thời Pháp, cư ngụ ở Tân Trung, ven Tỉnh lộ 793 dưới chân núi, lý giải: "Hồi kháng Pháp, đường lên núi không riêng gì có cheo leo hiểm trở, tăm tối mà còn đầy cọp, beo, rắn, rết. Người hành hương không đủ can đảm đi lẻ một mình mà phải kết thành từng đoàn. Hồi không đủ nữ, chính tôi từng đi xem xác người bị cọp núi Bà vồ. Muốn đi vía Bà, đoàn người hành hương phải đi từ sáng tinh mơ mới kịp trở về chân núi trước lúc trời tối.
Việc hô "khỏe" của những đoàn hành hương có nhiều quyền lợi. Thứ nhất, họ tự khuyến khích quyết tâm vượt qua cơn mệt nhọc và nỗi sợ hãi để đi đến nơi về thật sớm. Thứ hai, những thành viên của đoàn sẽ không còn lạc nhau. Thứ ba, việc hô to như vậy sẽ xua đuổi thú dữ. Lâu dần, việc hô như vậy thành lệ, truyền sang đời sau và trở thành niềm tin tâm linh là Bà cấm than mệt khi đi viếng Bà?"
Bà Hai Đông còn cho biết thêm thêm, rất mất thời hạn rồi Bà Đen nổi tiếng rất linh chỉ 2 phép: Phát duyên và phát vận. Căn cứ vào đó, hầu hết người đi viếng Bà chỉ cầu xin được tình duyên và gặp vận may. Các phép khác, Bà không ban.
Truyền thuyết về Bà Đen
Có đến 3 truyền thuyết về Bà Đen.
Truyền thuyết thứ nhất nhận định rằng, rất mất thời hạn rồi, chủ vùng núi này là người phụ nữ Phù Nam mang tên là Rê Đeng. Do người đời sau đọc trại thành Đen.
Truyền thuyết thứ hai nhận định rằng, bà Đen tên thật là Lý Thị Thiên Hương, con gái một vị quan trấn nhậm Trảng Bàng thuộc triều Nguyễn tên là Lý Thiên. Mẹ là bà Ðặng Ngọc Phụng, người gốc ở Bình Ðịnh vào Trảng Bàng lập nghiệp.
Trong làng có chàng trai Lê Sĩ Triệt, mồ côi cha mẹ, được một nhà sư nuôi dạy từ nhỏ, văn hay võ giỏi.
Lần nọ, Thiên Hương lên núi cúng chùa bị một đám côn đồ vây bắt. Giữa lúc nguy khốn thì chàng Lê Sĩ Triệt xông ra đánh đuổi, cứu được nàng. Ðể đáp ơn chàng, cha mẹ nàng Thiên Hương hứa gả nàng cho Lê Sĩ Triệt. Chưa kịp đám cưới thì Lê Sĩ Triệt phải tòng quân đánh Tây Sơn.
Khi Lê Sỹ Triệt tòng quân, ở trong nhà Lý Thị Thiên Hương bị kẻ xấu vây bắt, toan hãm hiếp. Giữ lòng trung trinh, nàng Hương nhảy xuống khe núi tử tiết. Sau khi chết, nàng Lý Thị Thiên Hương hiển thánh báo mộng cho vị sư trụ trì trên núi biết. Trong mộng, nàng Hương xuất hiện trong hình dáng một người phụ nữ đen đúa? Vị sư bèn đi tìm thi thể nàng đem về mai táng. Vì vậy, vị sư gọi nàng là nàng Đen. Người đời sau gọi là Bà Đen để tỏ lòng tôn kính.
Truyền thuyết thứ ba có ghi trong quyển "Sự tích Thánh Mẫu Phật Bà Tây Ninh" rằng: Thuở mới khai hoang vùng đất, một viên quan trấn thủ vùng chân núi Một có 2 người con. Người con trai tên là Thạch Biên. Người con gái là Thạch Nương, mang tên thường gọi là Đênh.
Khi nàng Đênh 13 tuổi, có một nhà sư tên là Trung Vân Danh, đạo hiệu Trừng Thanh tìm tới sống lưng chừng núi Một dựng chùa, thờ Phật và hoằng pháp độ sanh.
Mộ đạo, nàng Đênh đã xin theo nhà sư Trừng Thanh học đạo. Thấy nàng Đênh xinh đẹp, quan trấn thủ Trảng Bàng cho những người dân mai mối xin cưới cho con trai. Khi hai mái ấm gia đình sẵn sàng sẵn sàng lễ vật cho lễ cưới thì bất thần nàng mất tích. Gia đình hai bên cho những người dân tìm kiếm khắp nơi thì phát hiện một khúc chân nghi là của nàng Đênh. Mọi người đồn đoán rằng nàng Đênh đã biết thành cọp vồ. Gia đình mai táng khúc chân và lập mộ cho nàng dưới chân núi.
Từ đó, người ta gọi ngọn núi Một là núi Bà Đênh, đọc trại dần thành Bà Đen?
Khi chúa Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn đánh đuổi, chạy đến núi Bà Đen lẩn tránh. Thiếu lương thực, từ vua đến lính đều đói lả. Nghe dân cư đồn về sự việc rất linh của bà Đen, trong cơn vô vọng, chúa Nguyễn Ánh đã cầu khẩn xin phò trợ. Đêm đó, bà Đênh xuất hiện trong mộng của chúa Nguyễn Ánh. Bà cho biết thêm thêm Nguyễn Ánh đang nằm ngủ dưới gốc một loại cây cho trái hoàn toàn có thể cứu đói binh sĩ.
Khi thức giấc chúa Nguyễn Ánh trông thấy trên cành cây mình đang nằm ngủ có nhiều quả nhỏ chi chít. Hái xuống ăn thử thì có vị rất ngon. Ông truyền cho binh sĩ hái loại quả ấy ăn lót dạ. Ông đã đặt tên cho loại quả ấy là "tùng quân".
Năm 1790, Nguyễn Ánh đưa binh lính quay trở lại núi đúc tượng, cất lại điện thờ. Sau đó phong sắc Linh Sơn Điện và phong Bà là Linh Sơn Thánh Mẫu.
Từ thuở khai hoang
Ngày nay, sau nhiều lần trùng tu, xây mới, trên nền xưa của Linh Sơn Tự hiện hữu một ngôi chùa khang trang mang tên thường gọi là Linh Sơn Tiên Thạch Tự vừa thờ Phật vừa thờ Bà Đen. Sự giao thoa tín ngưỡng mặc nhiên này đã được người dân đồng ý.
Căn cứ vào những nguồn sử liệu của Quốc Sử quán triều Nguyễn thì Vua Gia Long phong sắc cho Bà Đen. Điều đó nghĩa là truyền thuyết về Bà Đen có trước lúc Nguyễn Ánh vào núi lánh nạn Tây Sơn.
Và cũng nghĩa là điện thờ Bà Đen mang tên thường gọi chính thức là Linh Sơn Điện. Như vậy, Linh Sơn Điện là vị trí của ngôi chùa Thượng. Còn một hang đá do những vị sư chi phái Liễu Quán (thuộc phái Lâm Tế Chánh Tông) làm nơi ẩn cư niệm Phật, được gọi là Linh Sơn Thạch Động Tự hoặc chùa Hang.
Điện thờ Bà mang tín ngưỡng thờ Mẫu. Còn ngôi chùa là tín ngưỡng Phật giáo ẩn cư của chi phái Liễu Quán (Lâm Tế).
Trở lại lịch sử, vào thế kỷ thứ XVIII, khi những chúa Nguyễn mở rộng bờ cõi về phía Nam thì một số trong những cao tăng thuộc Thiền phái Liễu Quán cũng theo làn sóng di cư xuôi Nam đi tìm chốn non hoang, động vắng tu pháp.
Năm 1763, Thiền sư Ðạo Trung Thiện Hiếu là đệ tử của Thiền sư Ðại Cơ và thuộc đời thứ tư của chi phái Liễu Quán tìm tới hang đá hoang vu trên núi Bà làm nơi định thiền. Đó đó đó là chùa Hang.
Lúc đó Thiền sư Đạo Trung đã nhặt được một số trong những tượng đồng cổ. Trong số đó có một tượng thánh nữ bằng đồng đúc màu đen. Vị sư đã cất miếu hương khói cho bức tượng phật này.
Thuở này đã có dân cư Việt và Cao Miên sinh sống dưới chân núi. Họ gọi Thiền sư Đạo Trung là "sư Bưng Đĩa" (Vì quan sát thấy Thiền sư thường nâng đĩa đựng hoa quả cúng tổ). Sau khi ẩn tu ở hang đá suốt 30 năm, Thiền sư Đạo Trung giao thạch điện cho đệ tử là Thiền sư Tính Thiện (tức Tánh Thiện Thanh Thanh). Thiền sư Đạo Trung về Thủ Dầu Một (Bình Dương) khai môn chùa Long Hưng. Kế nghiệp Thiền sư Tính Thiện là Thiền sư Hải Hiệp Từ Tạng.
Năm 1784, Nguyễn Ánh vào núi lánh nạn Tây Sơn. Năm 1790, Nguyễn Ánh sắc phong Linh Sơn Thánh Mẫu. Năm 1820, Vua Minh Mạng cử Lê Văn Duyệt làm Tổng trấn Gia Định Thành lần thứ hai. Và một lần nữa, Vua Minh Mạng ban sắc phong Linh Sơn Thánh Mẫu cho Bà Đen. Vua Minh Mạng còn ban chỉ cho Lê Văn Duyệt xây cất ngôi Linh Sơn Điện khang trang hơn.
Sau khi xây cất linh điện xong, Tổng trấn Lê Văn Duyệt đã giao cho Thiền sư Hải Hiệp gìn giữ. Tín ngưỡng thờ Mẫu và Phật hợp nhất trong một ngôi điện thờ.
Năm 1857, Thiền sư Tánh Thọ Phước Chí từ chùa Phước Lâm, Tây Ninh lên núi thăm viếng thì phát hiện Thiền sư Hải Hiệp viên tịch từ lúc nào, thân xác đã hóa thổ. Điều lạ là, ngón tay út bàn tay trái của Thiền sư Hải Hiệp vẫn còn đấy nguyên vẹn?
Thiền sư Tánh Thọ đã đem ngón tay út của Thiền sư Hải Hiệp chôn dưới đáy chùa Hang để lập bia mộ. Gần 100 năm tiếp theo, mộ của Thiền sư Hải Hiệp được tín đồ cải táng ra ngoài xây tháp. Khi đào lên, ngón tay út vẫn còn đấy nguyên và được cải táng?
Sau khi chôn cất ngón tay cho sư phụ, Thiền sư Tánh Thọ tiếp tục tu hành tại Linh Sơn Điện.
Sau năm 1940, quân Pháp và quân Nhật lần lượt chiếm đóng núi Bà Đen và phá hủy hoàn toàn Linh Sơn Điện. Tượng Bà bằng đồng đúc, màu đen bị chúng cướp và thất lạc.
Mãi đến năm 1956, một nhà giáo có uy tín ở địa phương, tên là Nguyễn Văn Hảo được một người phụ nữ đen đúa báo mộng cho biết thêm thêm, bà đó đó là Linh Sơn Thánh Mẫu. Bà bảo ông Hảo đến chùa Phước Lâm sẽ gặp bà? Ông Hảo bán tín bán nghi nhưng vẫn đến chùa Phước Lâm gặp vị sư trụ trì. Ông Hảo vừa kể xong câu truyện nằm mơ thì vị sư trụ trì chùa Phước Lâm thất kinh xác nhận: "Một người lính Nhật đã bí mật giao cho tôi bức tượng phật trước lúc về nước. Không ai biết chuyện này?" Câu chuyện này, được một nữ nhà giáo - con gái ruột của ông Nguyễn Văn Hảo - kể cho những người dân viết nghe từ thời điểm năm 1980.
Ngay sau khi phát hiện bức tượng phật đồng Bà Đen được cất giấu ở chùa Phước Lâm, nhà sư Nguyên Chất - Trụ trì chùa Phước Lâm - cùng nhà giáo Nguyễn Văn Hảo và bạn bè lên núi xây cất lại nơi thờ Bà. Lần xây cất này, khu công trình xây dựng được đặt tên là Linh Sơn Tự. Vào khoảng chừng 1970, quân đội Mỹ xây dựng 1 trạm ra đa tình báo đặt trên đỉnh núi để trấn áp địa phận Tây Ninh và dòm vào vị trí căn cứ Trung ương Cục. Trước khi đưa quân lên núi, giặc Mỹ đã ném hàng tấn bom đạn và hơi cay nhiều chủng loại vào những nơi chúng nghi ngờ có quân ta trú đóng. Do giao tranh ác liệt, ngôi chùa bị cháy bởi bom napal Mỹ. Bức tượng Bà lại thất lạc lần nữa.
Năm 1975, ni sư Diệu Nghĩa, đệ tử đời sau của sư Nguyên Chất đã xây lại chùa. Lần này, ngôi chùa mang tên là Linh Sơn Tiên Thạch Tự. Năm 1992, ni sư Diệu Nghĩa đã cùng tín đồ tái thiết ngôi chùa suốt 3 năm. Ngày nay, ngôi chùa thật khang trang và rộng tự do, sẵn sàng cung nghinh khách hành hương viếng Bà, lễ Phật.
Reply 4 0 Chia sẻ