Thủ Thuật Hướng dẫn Danh Sách của Schindler PDF Chi Tiết
Bạn đang tìm kiếm từ khóa Danh Sách của Schindler PDF được Cập Nhật vào lúc : 2022-12-26 09:04:05 . Với phương châm chia sẻ Kinh Nghiệm về trong nội dung bài viết một cách Chi Tiết 2022. Nếu sau khi tìm hiểu thêm Post vẫn ko hiểu thì hoàn toàn có thể lại Comment ở cuối bài để Tác giả lý giải và hướng dẫn lại nha.
Bài này viết về bộ phim truyền hình phát hành năm 1993. Đối với cuốn sách làm nguồn cảm hứng cho bộ phim truyền hình (phát hành tại Mỹ với tựa đề Bản list của Schindler), xem Schindler’s Ark. Đối với list có thực trong lịch sử, xem Danh sách những Schindlerjuden.
Bản list của Schindler (tựa gốc tiếng Anh: Schindler’s List) là một bộ phim truyền hình điện ảnh chính kịch cổ trang sử thi của Hoa Kỳ sản xuất và phát hành năm 1993 do Steven Spielberg làm đạo diễn kiêm đồng sản xuất và Steven Zaillian viết ngữ cảnh. Phim dựa theo cuốn tiểu thuyết Schindler’s Ark của Thomas Keneally, một tiểu thuyết gia người Úc. Bộ phim nhờ vào cuộc sống của Oskar Schindler, một người marketing thương mại người Đức đã cứu sống hơn một 1000 người Do Thái gốc Ba Lan tị nạn trong thời kỳ Đức Quốc Xã tàn sát người Do Thái bằng phương pháp tuyển họ vào làm trong những nhà máy sản xuất của tớ. Phim có sự tham gia của Liam Neeson trong vai Schindler, Ralph Fiennes trong vai sĩ quan Schutzstaffel (SS) Amon Goeth, và Ben Kingsley trong vai kế toán người Do Thái của Schindler, Itzhak Stern.
Nội dung chính
- Mục lục
- Nội dungSửa đổi
- Diễn viênSửa đổi
- Nhân vật chínhSửa đổi
- Diễn viên phụSửa đổi
- Sản xuấtSửa đổi
- Quá trình phát triểnSửa đổi
- Tuyển diễn viênSửa đổi
- Quay phimSửa đổi
- Kỹ thuật quaySửa đổi
- Âm nhạcSửa đổi
- Chủ đề và biểu tượngSửa đổi
- Cô bé mặc áo choàng đỏSửa đổi
- Những cây nếnSửa đổi
- Các rõ ràng khácSửa đổi
- Phát hànhSửa đổi
- Phản hồiSửa đổi
- Đánh giá chuyên mônSửa đổi
- Đánh giá từ những nhà làm phim khácSửa đổi
- Phản ứng của hiệp hội người Do TháiSửa đổi
- Giải thưởngSửa đổi
- Tranh cãiSửa đổi
- Ghi chúSửa đổi
- Chú thíchSửa đổi
- Tham khảoSửa đổi
- Liên kết ngoàiSửa đổi
- Steven Spielberg
- Gerald R. Molen
- Branko Lustig
- Liam Neeson
- Ben Kingsley
- Ralph Fiennes
- Caroline Goodall
- Jonathan Sagall
- Embeth Davidtz
- Amblin Entertainment
- Universal Pictures
- 30 tháng 11, 1993(1993-11-30) (Washington, D.C.)
- 15 tháng 12, 1993(1993-12-15) (Hoa Kỳ)
- 1 Nội dung
- 2 Diễn viên
- 2.1 Nhân vật chính
- 2.2 Diễn viên phụ
- 3 Sản xuất
- 3.1 Quá trình tăng trưởng
- 3.2 Tuyển diễn viên
- 3.3 Quay phim
- 3.4 Kỹ thuật quay
- 3.5 Âm nhạc
- 4 Chủ đề và hình tượng
- 4.1 Cô bé mặc áo choàng đỏ
- 4.2 Những cây nến
- 4.3 Các rõ ràng khác
- 5 Phát hành
- 6 Phản hồi
- 6.1 Đánh giá trình độ
- 6.2 Đánh giá từ những nhà làm phim khác
- 6.3 Phản ứng của hiệp hội người Do Thái
- 7 Trao Giải
- 8 Tranh cãi
- 9 Ghi chú
- 10 Chú thích
- 11 Tham khảo
- 12 Liên kết ngoài
- Liam Neeson vai Oskar Schindler, một người marketing thương mại người Đức, cứu mạng sống của hơn 1.100 người Do Thái bằng phương pháp nhận họ vào thao tác trong nhà máy sản xuất của tớ.
- Ben Kingsley vai Itzhak Stern, kế toán của Schindler và những đối tác chiến lược marketing thương mại.
- Ralph Fiennes vai Amon Göeth, vai phản diện trong phim; Göeth là một cán bộ được giao xây dựng và điều hành quản lý những trại triệu tập ở Płaszów, và là bạn của Schindler.
- Embeth Davidtz vai Helen Hirsch, một phụ nữ Do Thái trẻ, quyến rũ làm giúp việc nhà cho Göth.
- Caroline Goodall vai Emilie Schindler, vợ của Schindler.
- Jonathan Sagall vai Poldek Pfefferberg, một thanh niên sống sót với vợ của tớ, và phục vụ hàng cho Schindler từ chợ đen.
- Ezra Dagan vai Rabbi Lewartow, một giáo sĩ Do Thái thao tác làm thợ hàn ở trong nhà máy sản xuất Schindler.
- Malgoscha Gebel vai Wiktoria Klonowska
- Shmuel Levy vai Wilek Chilowicz
- Mark Ivanir vai Marcel Goldberg
- Béatrice Macola vai Ingrid
- Andrzej Seweryn vai Julian Scherner
- Friedrich von Thun vai Rolf Czurda
- Krzysztof Luft vai Herman Toffel
- Harry Nehring vai Leo John
- Norbert Weisser vai Albert Hujar
- Adi Nitzan vai Mila Pfefferberg
- Michael Schneider vai Juda Dresner
- Miri Fabian vai Chaja Dresner
- Anna Mucha vai Danka Dresner
- Albert Misak vai Mordecai Wulkan
- Hans-Michael Rehberg vai Rudolf Höss
- Daniel Del Ponte vai Bác sĩ Josef Mengele
- Steven Spielberg
- Gerald R. Molen
- Branko Lustig
- Ewa Braun
- Allan Starski
- Andy Nelson
- Steve Pederson
- Scott Millan
- Ron Judkins
- Christina Smith
- Matthew Mungle
- Judy Alexander Cory
- Steven Spielberg
- Branko Lustig
- Gerald R. Molen
- Christina Smith
- Matthew W. Mungle
- Waldemar Pokromski
- Pauline Heys
- Charles L. Campbell
- Louis L Edemann
- Robert Jackson
- Ronald Judkins
- Andy Nelson
- Steve Pederson
- Scott Millan
- Steven Spielberg
- Gerald R. Molen
- Branko Lustig
- Steven Spielberg
- Gerald R. Molen
- Branko Lustig
- ^ Judenrat: một hội đồng gồm 24 người Do Thái, do Đức Quốc xã lập ra với mục tiêu quản trị và vận hành chính người Do Thái thay họ
- ^ Williams cũng giành Giải Grammy cho album nhạc phim hay nhất với bộ phim truyền hình này.[137].
- ^ a b c Freer 2001, tr.220.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFFreer2001 (trợ giúp)
- ^ a b c d e McBride 1997, tr.416.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMcBride1997 (trợ giúp)
- ^ a b c McBride 1997, tr.435.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMcBride1997 (trợ giúp)
- ^ a b Corliss & Schickel 2005.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFCorlissSchickel2005 (trợ giúp)
- ^ a b Maltin 1999.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMaltin1999 (trợ giúp)
- ^ a b Channel 4 2008.
- ^ McBride 1997, tr.425.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMcBride1997 (trợ giúp)
- ^ Crowe 2004, tr.557.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFCrowe2004 (trợ giúp)
- ^ Palowski 1998, tr.6.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFPalowski1998 (trợ giúp)
- ^ a b McBride 1997, tr.424.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMcBride1997 (trợ giúp)
- ^ a b c McBride 1997, tr.426.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMcBride1997 (trợ giúp)
- ^ a b c d e f g h Thompson 1994.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFThompson1994 (trợ giúp)
- ^ Crowe 2004, tr.603.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFCrowe2004 (trợ giúp)
- ^ a b c d e McBride 1997, tr.427.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMcBride1997 (trợ giúp)
- ^ Palowski 1998, tr.27.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFPalowski1998 (trợ giúp)
- ^ Palowski 1998, tr.8687.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFPalowski1998 (trợ giúp)
- ^ a b c Phỏng vấn Susan Royal.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFPhỏng_vấn_Susan_Royal (trợ giúp)
- ^ Palowski 1998, tr.86.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFPalowski1998 (trợ giúp)
- ^ Entertainment Weekly, 21 tháng 1 năm 1994.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFEntertainment_Weekly,_21_tháng_1_năm_1994 (trợ giúp)
- ^ McBride 1997, tr.429.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMcBride1997 (trợ giúp)
- ^ Palowski 1998, tr.87.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFPalowski1998 (trợ giúp)
- ^ a b c d Corliss 1994.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFCorliss1994 (trợ giúp)
- ^ Crowe 2004, tr.102.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFCrowe2004 (trợ giúp)
- ^ Freer 2001, tr.225.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFFreer2001 (trợ giúp)
- ^ Palowski 1998, tr.8788.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFPalowski1998 (trợ giúp)
- ^ Mintz 2001, tr.128.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMintz2001 (trợ giúp)
- ^ Palowski 1998, tr.48.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFPalowski1998 (trợ giúp)
- ^ a b c McBride 1997, tr.431.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMcBride1997 (trợ giúp)
- ^ Palowski 1998, tr.14.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFPalowski1998 (trợ giúp)
- ^ Palowski 1998, tr.109, 111.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFPalowski1998 (trợ giúp)
- ^ Palowski 1998, tr.62.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFPalowski1998 (trợ giúp)
- ^ a b c Ansen & Kuflik 1993.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFAnsenKuflik1993 (trợ giúp)
- ^ McBride 1997, tr.414.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMcBride1997 (trợ giúp)
- ^ McBride 1997, tr.433.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMcBride1997 (trợ giúp)
- ^ Susan Royal interview.
- ^ Palowski 1998, tr.44.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFPalowski1998 (trợ giúp)
- ^ a b McBride 1997, tr.415.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMcBride1997 (trợ giúp)
- ^ Palowski 1998, tr.45.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFPalowski1998 (trợ giúp)
- ^ McBride 1997, tr.431432, 434.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMcBride1997 (trợ giúp)
- ^ a b c d e McBride 1997, tr.432.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMcBride1997 (trợ giúp)
- ^ Gangel 2005.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFGangel2005 (trợ giúp)
- ^ Phỏng vấn video với Perlman.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFPhỏng_vấn_video_với_Perlman (trợ giúp)
- ^ Rubin 2001, tr.7374.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFRubin2001 (trợ giúp)
- ^ Medien 2011.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMedien2011 (trợ giúp)
- ^ a b Giải Oscar lần thứ 66 1994.
- ^ Danh sách ca khúc của AllMusic.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFDanh_sách_ca_khúc_của_AllMusic (trợ giúp)
- ^ a b Loshitsky 1997, tr.5.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFLoshitsky1997 (trợ giúp)
- ^ a b McBride 1997, tr.428.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMcBride1997 (trợ giúp)
- ^ a b Loshitsky 1997, tr.43.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFLoshitsky1997 (trợ giúp)
- ^ a b McBride 1997, tr.436.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMcBride1997 (trợ giúp)
- ^ Schickel 2012, tr.161162.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFSchickel2012 (trợ giúp)
- ^ Patrizio 2004.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFPatrizio2004 (trợ giúp)
- ^ Caron 2003.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFCaron2003 (trợ giúp)
- ^ a b Gilman 2013.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFGilman2013 (trợ giúp)
- ^ Logocka 2002.
- ^ Rosner 2014.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFRosner2014 (trợ giúp)
- ^ Horowitz 1997, tr.124.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFHorowitz1997 (trợ giúp)
- ^ Horowitz 1997, tr.126127.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFHorowitz1997 (trợ giúp)
- ^ Palowski 1998, tr.112.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFPalowski1998 (trợ giúp)
- ^ Gellately 1993.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFGellately1993 (trợ giúp)
- ^ Mintz 2001, tr.154.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMintz2001 (trợ giúp)
- ^ Federal Reserve Bank of Minneapolis Community Development Project. Consumer Price Index (estimate) 1800. Federal Reserve Bank of Minneapolis. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2022.
- ^ Freer 2001, tr.233.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFFreer2001 (trợ giúp)
- ^ Loshitsky 1997, tr.9, 14.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFLoshitsky1997 (trợ giúp)
- ^ a b Berliner Zeitung 1997.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFBerliner_Zeitung1997 (trợ giúp)
- ^ Loshitsky 1997, tr.11, 14.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFLoshitsky1997 (trợ giúp)
- ^ Broadcasting & Cable 1997.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFBroadcasting_&_Cable1997 (trợ giúp)
- ^ Meyers, Zandberg & Neiger 2009, tr.456.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMeyersZandbergNeiger2009 (trợ giúp)
- ^ Amazon, DVD.
- ^ Amazon, Bộ quà tặng.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFAmazon,_Bộ_quà_tặng (trợ giúp)
- ^ Amazon, Đĩa laser.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFAmazon,_Đĩa_laser (trợ giúp)
- ^ Amazon, Blu-ray.
- ^ Freer 2001, tr.235.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFFreer2001 (trợ giúp)
- ^ Freer 2001, tr.235236.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFFreer2001 (trợ giúp)
- ^ Mintz 2001, tr.126.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMintz2001 (trợ giúp)
- ^ Horowitz 1997, tr.119.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFHorowitz1997 (trợ giúp)
- ^ Schindler’s List (1993). Rotten Tomatoes. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2014.
- ^ Schindler’s List Reviews. Metacritic. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2014.
- ^ Schiff 1994, tr.98.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFSchiff1994 (trợ giúp)
- ^ a b Ebert 1993.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFEbert1993 (trợ giúp)
- ^ Rafferty 1993.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFRafferty1993 (trợ giúp)
- ^ Mintz 2001, tr.132.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMintz2001 (trợ giúp)
- ^ Verniere 1993.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFVerniere1993 (trợ giúp)
- ^ Gross 1994.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFGross1994 (trợ giúp)
- ^ Mintz 2001, tr.147.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMintz2001 (trợ giúp)
- ^ Mintz 2001, tr.131.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMintz2001 (trợ giúp)
- ^ Houston Post 1994.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFHouston_Post1994 (trợ giúp)
- ^ Mintz 2001, tr.134.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMintz2001 (trợ giúp)
- ^ Horowitz 1997, tr.138139.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFHorowitz1997 (trợ giúp)
- ^ Horowitz 1997, tr.130.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFHorowitz1997 (trợ giúp)
- ^ Bartov 1997, tr.49.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFBartov1997 (trợ giúp)
- ^ Leistedt & Linkowski 2014.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFLeistedtLinkowski2014 (trợ giúp)
- ^ Horowitz 1997, tr.137.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFHorowitz1997 (trợ giúp)
- ^ Epstein 1994.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFEpstein1994 (trợ giúp)
- ^ McBride 1997, tr.439.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMcBride1997 (trợ giúp)
- ^ Cronin 2005, tr.168.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFCronin2005 (trợ giúp)
- ^ Cronin 2005, tr.167.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFCronin2005 (trợ giúp)
- ^ a b Goldman 2005.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFGoldman2005 (trợ giúp)
- ^ Ebert 2002.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFEbert2002 (trợ giúp)
- ^ a b Keneally 2007, tr.265.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFKeneally2007 (trợ giúp)
- ^ Haneke 2009.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFHaneke2009 (trợ giúp)
- ^ Lanzmann 2007.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFLanzmann2007 (trợ giúp)
- ^ McBride 1997, tr.434.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMcBride1997 (trợ giúp)
- ^ Mintz 2001, tr.136137.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMintz2001 (trợ giúp)
- ^ Kertész 2001.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFKertész2001 (trợ giúp)
- ^ a b McBride 1997, tr.440.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMcBride1997 (trợ giúp)
- ^ Mintz 2001, tr.136.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMintz2001 (trợ giúp)
- ^ Cẩm nang điện ảnh Time Out 1995.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFCẩm_nang_điện_ảnh_Time_Out1995 (trợ giúp)
- ^ Greydanus 1995.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFGreydanus1995 (trợ giúp)
- ^ Channel 4 2005.
- ^ Berardinelli 1993.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFBerardinelli1993 (trợ giúp)
- ^ Johnson 2011.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFJohnson2011 (trợ giúp)
- ^ Thư viện Quốc hội Mỹ 2004.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFThư_viện_Quốc_hội_Mỹ2004 (trợ giúp)
- ^ CBC 2013.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFCBC2013 (trợ giúp)
- ^ Trao Giải của Hội những nhà sản xuất Hoa Kỳ.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFGiải_thưởng_của_Hội_các_nhà_sản_xuất_Hoa_Kỳ (trợ giúp)
- ^ Pond 2011.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFPond2011 (trợ giúp)
- ^ Cộng đồng những nhà phê bình phim vương quốc Hoa Kỳ.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFCộng_đồng_các_nhà_phê_bình_phim_quốc_gia_Hoa_Kỳ (trợ giúp)
- ^ Maslin 1993.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFMaslin1993 (trợ giúp)
- ^ Thương Hội phê bình phim Los Angeles.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFHiệp_hội_phê_bình_phim_Los_Angeles (trợ giúp)
- ^ Loshitsky 1997, tr.2, 21.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFLoshitsky1997 (trợ giúp)
- ^ Giardina 2011.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFGiardina2011 (trợ giúp)
- ^ Giải BAFTA 1993.
- ^ Thương Hội phê bình phim Chicago 1993.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFHiệp_hội_phê_bình_phim_Chicago1993 (trợ giúp)
- ^ Giải Quả cầu vàng 1993.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFGiải_Quả_cầu_vàng1993 (trợ giúp)
- ^ Viện phim Mỹ 1998.
- ^ Viện phim Mỹ 2003.
- ^ Viện phim Mỹ 2005.
- ^ Viện phim Mỹ 2006.
- ^ Viện phim Mỹ 2007.
- ^ American Film Institute 2008.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFAmerican_Film_Institute2008 (trợ giúp)
- ^ Chuang 1997.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFChuang1997 (trợ giúp)
- ^ Chicago Tribune 1997.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFChicago_Tribune1997 (trợ giúp)
- ^ CNN 1997.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFCNN1997 (trợ giúp)
- ^ Branigin 1994.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFBranigin1994 (trợ giúp)
- ^ Kosulicova 2002.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFKosulicova2002 (trợ giúp)
- ^ Bresheeth 1997, tr.205.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFBresheeth2997 (trợ giúp)
- ^ Freer 2001, tr.234.Lỗi sfn: không còn tiềm năng: CITEREFFreer2001 (trợ giúp)
- 6th Annual Chicagos Film Critics Awards. Chicago Film Critics Association. 1993. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
- 19th Annual Los Angeles Film Critics Awards. Los Angeles Film Critics Association. 2007. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm trước đó đó.
- The 66th Academy Awards (1994) Nominees and Winners. Academy of Motion Picture Arts and Sciences. ngày 21 tháng 3 năm 1994. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng bốn năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2014.
- 100 Greatest Films. Channel 4. ngày 8 tháng bốn năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm trước đó đó.
- 100 Greatest War Films. Channel 4. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2005. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm trước đó đó.
- AFI’s 100 Years… 100 Movies. Viện phim Mỹ. 1998. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm trước đó đó.
- AFI’s 100 Years… 100 Heroes and Villains (PDF). Viện phim Mỹ. 2003. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm trước đó đó.
- AFI’s 100 Years… 100 Quotes (PDF). Viện phim Mỹ. 2005. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm trước đó đó.
- AFI’s 100 Years… 100 Cheers. Viện phim Mỹ. ngày 31 tháng 5 năm 2006. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm trước đó đó.
- AFI’s 100 Years… 100 Movies 10th Anniversary Edition. Viện phim Mỹ. ngày 20 tháng 6 trong năm 2007. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm trước đó đó.
- AFI’s 10 Top 10: Top 10 Epic. Viện phim Mỹ. 2008. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm trước đó đó.
- Ansen, David; Kuflik, Abigail (ngày 19 tháng 12 năm 1993). Spielberg’s obsession. Newsweek. 122 (25): 112116.
- Film in 1994 | BAFTA Awards. British Academy of Film and Television Arts. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm trước đó đó.
- Bartov, Omer (1997). Spielberg’s Oskar: Hollywood Tries Evil. Trong Loshitzky, Yosefa (sửa đổi và biên tập). Spielberg’s Holocaust: Critical Perspectives on Schindler’s List. Bloomington, IN: Indiana University Press. tr.4160. ISBN0-253-21098-4.
- Berardinelli, James (ngày 31 tháng 12 năm 1993). Rewinding 1993 The Best Films. reelviews.net. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm trước đó đó.
- Branigin, William (ngày 9 tháng 3 năm 1994). ‘Schindler’s List’ Fuss In Philippines Censors Object To Sex, Not The Nazi Horrors. The Seattle Times.
- Bresheeth, Haim (1997). The Great Taboo Broken: Reflections on the Israeli Reception of Schindler’s List. Trong Loshitzky, Yosefa (sửa đổi và biên tập). Spielberg’s Holocaust: Critical Perspectives on Schindler’s List. Bloomington, IN: Indiana University Press. tr.193212. ISBN0-253-21098-4.
- Caron, André (ngày 25 tháng 7 năm 2003). Spielberg’s Fiery Lights. The Question Spielberg: A Symposium Part Two: Films and Moments. Senses of Cinema. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2014.
- Chuang, Angie (ngày 25 tháng 2 năm 1997). Television: ‘Schindler’s’ Showing. Los Angeles Times. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm trước đó đó.
- Corliss, Richard (ngày 21 tháng 2 năm 1994). The Man Behind the Monster. TIME. Time Warner. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2014.
- Corliss, Richard; Schickel, Richard (2005). All-Time 100 Best Movies. TIME. Time Warner. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm trước đó đó.
- Cronin, Paul sửa đổi và biên tập (2005). Roman Polanski: Interviews. Jackson: University Press of Mississippi. ISBN1-57806-799-5.
- Crowe, David M. (2004). Oskar Schindler: The Untold Account of His Life, Wartime Activities, and the True Story Behind the List. Cambridge, MA: Westview Press. ISBN978-0-465-00253-5.
- Ebert, Roger (ngày 15 tháng 12 năm 1993). Spielberg Masters Subtlety in Film. Chicago Sun-Times. Chicago: Tim Knight.
- Ebert, Roger (ngày 31 tháng 12 năm 1993). The Best 10 Movies of 1993. Roger Ebert’s Journal. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm trước đó đó.
- Ebert, Roger (ngày 18 tháng 10 năm 2002). In Praise Of Love. Chicago Sun-Times. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm trước đó đó.
- Epstein, Jason (ngày 21 tháng bốn năm 1994). A Dissent on ‘Schindler’s List’. The Tp New York Review of Books. Tp New York. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm trước đó đó.
- Freer, Ian (2001). The Complete Spielberg. Virgin Books. tr.220237. ISBN0-7535-0556-8.
- Gangel, Jamie (ngày 6 tháng 5 năm 2005). The man behind the music of ‘Star Wars’. NBC. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm trước đó đó.
- Gellately, Robert (1993). Between Exploitation, Rescue, and Annihilation: Reviewing Schindler’s List. Central European History. Cambridge: Cambridge University Press. 26 (4): 475489. doi:10.1017/S0008938900009419. JSTOR4546374.
- Giardina, Carolyn (ngày 7 tháng 2 năm 2011). Michael Kahn, Michael Brown to Receive ACE Lifetime Achievement Awards. The Hollywood Reporter. Lynne Segall. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm trước đó đó.
- Gilman, Greg (ngày 5 tháng 3 năm trước đó đó). Red coat girl traumatized by ‘Schindler’s List’. Sarnia Observer. Sarnia, Ontario. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm trước đó đó.
- Goldman, A.J. (ngày 25 tháng 8 năm 2005). Stanley Kubrick’s Unrealized Vision. Jewish Journal. Tribe Media Corp. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm trước đó đó.
- Greydanus, Steven D. (ngày 17 tháng 3 năm 1995). The Vatican Film List. Decent Films. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm trước đó đó.
- Gross, John (ngày 3 tháng 2 năm 1994). Hollywood and the Holocaust. Tp New York Review of Books. 16 (3). Truy cập ngày 15 tháng 10 năm trước đó đó.
- Haneke, Michael (ngày 14 tháng 11 năm 2009). Michael Haneke discusses ‘The White Ribbon’. Time Out London. Time Out Group. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2014.
- Horowitz, Sara (1997). But Is It Good for the Jews? Spielberg’s Schindler and the Aesthetics of Atrocity. Trong Loshitzky, Yosefa (sửa đổi và biên tập). Spielberg’s Holocaust: Critical Perspectives on Schindler’s List. Bloomington, IN: Indiana University Press. tr.119139. ISBN0-253-21098-4.
- Johnson, Eric C. (ngày 28 tháng 2 năm 2011). Gene Siskel’s Top Ten Lists 19691998. Index of Critics. Bản gốc tàng trữ ngày 27 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm trước đó đó.
- Keneally, Thomas (2007). Searching for Schindler: A Memoir. Tp New York: Nan A. Talese. ISBN978-0-385-52617-3.
- Kertész, Imre (Spring 2001). Who Owns Auschwitz?. Yale Journal of Criticism. Baltimore: Johns Hopkins University Press. 14 (1): 267272. doi:10.1353/yale.2001.0010.
- Kosulicova, Ivana (ngày 7 tháng 1 năm 2002). Drowning the bad times: Juraj Herz interviewed. Kinoeye. 2 (1). Truy cập ngày 28 tháng 10 năm trước đó đó.
- Lanzmann, Claude (2007). Schindler’s List is an impossible story. University College Utrecht. Bản gốc tàng trữ ngày 14 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2014.
- Leistedt, Samuel J.; Linkowski, Paul (tháng 1 năm 2014). Psychopathy and the Cinema: Fact or Fiction?. Journal of Forensic Sciences. American Academy of Forensic Sciences. 59 (1): 167174. doi:10.1111/1556-4029.12359. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2014.
- Librarian of Congress Adds 25 Films to National Film Registry. Library of Congress. ngày 28 tháng 12 năm 2004. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm trước đó đó.
- Ligocka, Roma. The Girl in the Red Coat: A Memoir. MacMillan. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm trước đó đó.
- Loshitsky, Yosefa (1997). Introduction. Trong Loshitzky, Yosefa (sửa đổi và biên tập). Spielberg’s Holocaust: Critical Perspectives on Schindler’s List. Bloomington, IN: Indiana University Press. tr.117. ISBN0-253-21098-4.
- Maltin, Leonard (1999). 100 Must-See Films of the 20th Century. Movie and Video Guide 2000. American Movie Classics Company. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm trước đó đó.
- Maslin, Janet (ngày 16 tháng 12 năm 1993). Tp New York Critics Honor ‘Schindler’s List’. The Tp New York Times. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm trước đó đó.
- McBride, Joseph (1997). Steven Spielberg: A Biography. Tp New York: Simon & Schuster. ISBN0-684-81167-7.
- Medien, Nasiri (2011). A Life Like A Song With Ever Changing Verses. giorafeidman-trực tuyến.com. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm trước đó đó.
- Meyers, Oren; Zandberg, Eyal; Neiger, Motti (tháng 9 năm 2009). Prime Time Commemoration: An Analysis of Television Broadcasts on Israel’s Memorial Day for the Holocaust and the Heroism (PDF). Journal of Communication. 59 (3): 456480. doi:10.1111/j.1460-2466.2009.01424.x. ISSN0021-9916. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2014.
- Mintz, Alan (2001). Popular Culture abd the Shaping of Holocaust Memory in America. The Samuel and Althea Stroum Lectures in Jewish Studies. Seattle; London: University of Washington Press. ISBN0-295-98161-X.
- Palowski, Franciszek (1998) [1993]. The Making of Schindler’s List: Behind the Scenes of an Epic Film. Secaucus, NJ: Carol Publishing Group. ISBN1-55972-445-5.
- Past Awards. National Society of Film Critics. 2013. Bản gốc tàng trữ ngày 11 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm trước đó đó.
- Patrizio, Andy (ngày 10 tháng 3 năm 2004). Schindler’s List: The DVD is good, too. IGN Entertainment. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2014.
- Perlman, Itzhak. John Williams, Itzhak Perlman Schindler’s List. YouTube. Sự kiện xẩy ra vào lúc 00:00 to 00:51. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm trước đó đó.
- PGA Award Winners 19902010. Producers Guild of America. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm trước đó đó.
- Pond, Steve (ngày 19 tháng 1 năm 2011). Steven Zaillian to Receive WGA Laurel Award. The Wrap News. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm trước đó đó.
- Rafferty, Terrence (1993). The Film File: Schindler’s List. The New Yorker. Tp New York: Condé Nast. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 6 trong năm 2007. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2014.
- Rosner, Orin (ngày 23 tháng bốn năm 2014). לכל איש יש שם גם לילדה עם המעיל האדום מ”רשימת שינדלר” [Ai cũng có một cái tên kể cả cô bé mặc áo khoác đỏ trong ‘Bản danh sách của Schindler’] (bằng tiếng Tiếng Hebrew). Ynet. Truy cập ngày 28 tháng bốn năm 2014.Quản lý CS1: ngôn từ không rõ (link)
- Royal, Susan. An Interview with Steven Spielberg. Inside Film Magazine Online. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm trước đó đó.
- Rubin, Susan Goldman (2001). Steven Spielberg: Crazy for Movies. Tp New York: Harry N. Abrams. ISBN0-8109-4492-8.
- Schickel, Richard (2012). Steven Spielberg: A Retrospective. Tp New York: Sterling. ISBN978-1-4027-9650-0.
- Schiff, Stephen (ngày 21 tháng 3 năm 1994). Seriously Spielberg. The New Yorker. Tp New York: Condé Nast: 96109.
- Schindler’s List. Hollywood Foreign Press Association. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm trước đó đó. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm trước đó đó.
- Schindler’s List: Box Set Laserdisc Edition. Amazon.com. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm trước đó đó.
- Schindler’s List (Blu-ray + DVD + Digital Copy + UltraViolet) (1993). Amazon. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2014.
- Schindler’s List (Widescreen Edition) (1993). Amazon. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm trước đó đó.
- Schindler’s List Collector’s Gift Set (1993). Amazon. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm trước đó đó.
- Staff (ngày 26 tháng 2 năm 1997). After rebuke, congressman apologizes for ‘Schindler’s List’ remarks. CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 10 trong năm 2007. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm trước đó đó.
- Staff (ngày 28 tháng 2 năm 1994). German “Schindler’s List” Debut Launches Debate, Soul-Searching. Houston Post. Reuters.
- Staff (ngày 26 tháng 2 năm 1997). GOP Lawmaker Blasts NBC For Airing ‘Schindler’s List’. Chicago Tribune. Tony W. Hunter. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm trước đó đó.
- Staff (ngày 21 tháng 2 năm 1997). “Mehr Wirkung ohne Werbung”: Gemischte Reaktionen jüdischer Gemeinden auf geplante Unterbrechung von “Schindlers Liste”. Berliner Zeitung (bằng tiếng Đức). Berlin: Berliner Verlag. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm trước đó đó.Quản lý CS1: ngôn từ không rõ (link)
- Staff (ngày 21 tháng 1 năm 1994). Oskar Winner: Liam Neeson joins the A-List after ‘Schindler’s List’. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm trước đó đó.
- Staff (ngày 3 tháng 3 năm 1997). People’s Choice: Ratings according to Nielsen Feb. 1723 (PDF). Broadcasting & Cable. Cahners Publishing: 31.
- Staff. John Williams: Schindler’s List. All Media Network. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm trước đó đó.
- Staff (ngày 8 tháng 1 năm trước đó đó). Spielberg earns 11th Directors Guild nomination. CBC News. Associated Press. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm trước đó đó.
- Thompson, Anne (ngày 21 tháng 1 năm 1994). Making History: How Steven Spielberg brought ‘Schindler’s List’ to life. Entertainment Weekly. Bản gốc tàng trữ 19 tháng 6 trong năm 2007. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm trước đó đó.
- Top 100 Films (Centenary) from Time Out. Time Out Group Ltd. 1995. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm trước đó đó.
- Verniere, James (ngày 15 tháng 12 năm 1993). Holocaust Drama is a Spielberg Triumph. Boston Herald. Boston: Herald Media.
- Cổng thông tin Điện ảnh
- Cổng thông tin Truyền hình
- Cổng thông tin Úc
- Bản list của Schindler trên Universal Studios Entertainment
- Schindler’s List trên Internet Movie Database
- Bản list của Schindler trên Mục lục phim điện ảnh của Viện phim Mỹ
- Bản list của Schindler tại TCM Movie Database
- Bản list của Schindler tại Box Office Mojo
- Bản list của Schindler tại Rotten Tomatoes
- Bản list của Schindler tại Metacritic
- Quỹ Shoah, do Steven Spielberg sáng lập, bảo tồn những dẫn chứng của những người dân sống sót và nhân chứng thời kỳ thảm sát người Do Thái
- Through the Lens of History: Aerial Evidence for Schindlers List trên trang Yad Vashem
- Thư mục Bản list của Schindler tại UC Berkeley
- Voices on Antisemitism Phóng vấn Ralph Fiennes của Bảo tàng tưởng niệm Holocaust Hoa Kỳ 4/3/2010
- Phỏng vấn của Voices on Antisemitism với Ngài Ben Kingsley tại Bảo tàng tưởng niệm Holocaust Hoa Kỳ 6/10/2011
- Schindler’s List: Myth, movie, and memory (PDF). The Village Voice: 2431. ngày 29 tháng 3 năm 1994.
- Schindler’s List – Official Trailer [1993] trên YouTube Xuất bản 17-04-2009
Bản list của Schindler
Áp phích phim tại những rạpĐạo diễnSteven SpielbergSản xuất
Kịch bảnSteven ZaillianDựa trênSchindler’s Ark
củaThomas KeneallyDiễn viên
Âm nhạcJohn WilliamsQuay phimJanusz KamińskiDựng phimMichael KahnHãng sản xuất
Phát hànhUniversal PicturesCông chiếu
Độ dài195 phút[1]Quốc giaHoa KỳNgôn ngữTiếng AnhKinh phí22 triệu USD[2]Doanh thu322,2 triệu USD[3]
Ý tưởng sản xuất một bộ phim truyền hình nói về Schindlerjuden (những người dân Do Thái của Schindler) được đề xuất kiến nghị lần thứ nhất vào năm 1963. Poldek Pfefferberg, một trong số những người dân Schindlerjuden, xác lập rằng thiên chức của cuộc sống mình là phải kể lại câu truyện của Schindler cho hậu thế. Spielberg tỏ ra hứng thú với ngữ cảnh này sau khi nhà điều hành quản lý Sid Sheinberg gửi cho ông một bản nhận xét cuốn sách Schindler’s Ark. Universal Studios mua bản quyền chuyển thể điện ảnh của cuốn tiểu thuyết, tuy nhiên Spielberg, ban đầu còn lo ngại ông chưa đủ tự tin để làm một bộ phim truyền hình về thời kỳ tàn sát người Do Thái, tìm cách đẩy dự án công trình bất Động sản sang cho một số trong những đạo diễn khác trước kia khi quyết định hành động tự tay đạo diễn bộ phim truyền hình này.
Quá trình quay phim chính trình làng tại Kraków, Ba Lan trong vòng 72 ngày. Spielberg quay bộ phim truyền hình dưới định dạng đen trắng và coi đó là một bộ phim truyền hình tài liệu. Nhà quay phim Janusz Kamiński muốn mang lại cho tác phẩm điện ảnh này một cảm hứng vượt thời hạn. John Williams soạn nhạc cho bộ phim truyền hình, và nghệ sĩ vĩ cầm Itzhak Perlman màn biểu diễn bản nhạc chủ đề của cục phim truyền hình.
Bản list của Schindler trình làng vào trong ngày 30 tháng 11 năm 1993 tại Washington, D.C. và được phát hành rộng tự do trên toàn nước Mỹ vào trong ngày 15 tháng 12 năm 1993. Thường sẽ là một trong những bộ phim truyền hình hay nhất mọi thời đại từng được sản xuất,[4][5][6] phim cũng thu được thành công xuất sắc thương mại, mang về 322 triệu USD trên toàn thế giới so với 22 triệu USD kinh phí góp vốn đầu tư. Phim giành được bảy giải Oscar (trong tổng số mười hai đề cử), trong số đó có giải Phim hay nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất, Kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất và Nhạc phim hay nhất, cùng thật nhiều phần thưởng khác (trong số đó có bảy giải BAFTA và ba giải Quả cầu vàng). Năm 2007, Viện phim Mỹ xếp bộ phim truyền hình này đứng thứ 8 trong list 100 phim Mỹ hay nhất mọi thời đại. Thư viện Quốc hội Mỹ đã lựa chọn bộ phim truyền hình này để bảo tồn tại Viện tàng trữ phim Quốc gia Hoa Kỳ vào năm 2004.
Mục lục
Nội dungSửa đổi
Năm 1939 thời Thế chiến II, sau khi chiếm hữu được Ba Lan, quân đội Đức di tản những người dân Do Thái đến khu triệu tập người Do Thái Kraków. Là một người marketing thương mại kiêm thành viên của Đảng Quốc Xã, Oskar Schindler đến Kraków và tóm gọn về một nhà máy sản xuất sản xuất vật dụng mái ấm gia đình tráng men, thuê Itzhak Stern làm kế toán và quản trị và vận hành. Schindler quan hệ hữu hảo với những sĩ quan Đức Quốc Xã, sở hữu môi trường tự nhiên vạn vật thiên nhiên sống đời thường giàu sang với vị thế “Herr Direktor” (giám đốc). Về phần Stern, không những là một viên chức của Judenrat,[a] Stern còn biết những đường dây móc nối với thị trường chợ đen và hiệp hội marketing thương mại của người Do Thái. Công việc của Stern là tuyển dụng lao động, lo sổ sách kế toán, quản trị và vận hành doanh nghiệp, cũng như tìm mua nhiều chủng loại vật phẩm quý và hiếm bằng đường chợ đen để Schindler làm quà tặng hối lộ cho những sĩ quan SS. Lực lượng lao động chính của công xưởng là người Do Thái vì Schindler thấy đấy là nguồn lao động rẻ mạt, còn Stern muốn cấp giấy xác nhận “lao động thiết yếu” cho càng nhiều người Do Thái càng tốt để họ không biến thành chuyển tới những trại triệu tập hoặc bị bắn bỏ.
Sĩ quan SS Untersturmführer Amon Göth đến Kraków để trông coi việc xây dựng trại triệu tập Płaszów. Trong quy trình bị lính Quốc Xã săn lùng và áp giải đến trại triệu tập, máu của vô số người Do Thái đã đổ. Schindler tận mắt tận mắt chứng kiến toàn cảnh thảm sát và cảm thấy bàng hoàng. Ông đặc biệt quan trọng để ý quan tâm tới một bé gái mặc áo choàng đỏ một trong những mảng màu khan hiếm của cục phim truyền hình đen trắng trốn chạy khỏi binh lính Quốc Xã. Một buổi sáng nọ, Amon đứng trên ban công, cầm súng bắn ngẫu nhiên những người dân trong trại triệu tập như một thú tiêu khiển. Theo thời hạn, Schindler ngày càng quan tâm đến việc tìm cách cứu người Do Thái. Ông hối lộ cho Göth để được phép tiếp tục duy trì một xưởng sản xuất nhỏ.
Tình hình chiến trận ngày một bất lợi, xác suất quân Đức thua cuộc ngày càng lớn. Göth được lệnh đưa những người dân Do Thái còn sót lại ở Płaszów đến trại triệu tập Auschwitz. Schindler xin Göth để lấy công nhân của tớ tới một nhà máy sản xuất đạn dược mới sắp được xây ở quê nhà Zwittau-Brinnlitz, Tiệp Khắc. Göth đồng ý, đổi lại bằng một khoản hối lộ lớn tính theo đầu người. Schindler và Stern lập ra “Bản list của Schindler” đề tên những người dân sẽ tiến hành chuyển tới Brinnlitz, tức sẽ thoát khỏi Auschwitz. ( click more Bản list của Schindler )
Phần lớn những người dân trong list đều được chuyển đến Zwittau-Brinnlitz, nhưng chuyến tàu chở phụ nữ và trẻ con vô tình bị chuyển hướng sang Auschwitz. Schindler phải đến tận nơi hối lộ viên sĩ quan chỉ huy một túi kim cương thì hắn mới thả người. Tại nhà máy sản xuất mới, Schindler cấm binh lính SS tự ý vào khu sản xuất, bãi bỏ những hành vi giết hại và ngược đãi, khuyến khích người Do Thái làm lễ Shabbat. Bảy tháng trôi qua mà những thành phầm của công ty vẫn không đạt tiêu chuẩn, buộc Schindler phải mua vỏ đạn từ những công ty khác để phục vụ cho phía người tiêu dùng. Song tuy nhiên đó, ông vẫn tiếp tục bỏ tiền túi ra để hối lộ cho những sĩ quan quốc xã. Đến năm 1945, Schindler đã khánh kiệt hoàn toàn về mặt tài chính, đúng thời cơ quân Đức tuyên bố đầu hàng vô Đk, chấm hết trận chiến tranh ở châu Âu.
Schindler tập hợp công nhân để nói lời từ biệt. Là một thành viên của Đảng Quốc Xã, nhà sản xuất vũ khí, kẻ tận dụng sức lao động của tù nhân, Schindler buộc phải chạy trốn để tránh bị Hồng Quân bắt giữ. Trước đó, những binh lính SS trong khu xưởng nhận được lệnh thảm sát toàn bộ người Do Thái nhưng Schindler thuyết phục họ đừng làm vậy mà hãy “về nhà với danh nghĩa là những người dân đàn ông, chứ không phải là những kẻ sát nhân”. Các công nhân đưa cho Schindler một tờ giấy xác nhận rằng ông đã cứu sống nhiều người Do Thái kèm chữ ký của toàn thể công nhân, cùng một chiếc nhẫn khắc câu nói của người Talmud: “Whoever saves one life saves the world entire” (Ai đã cứu sống một người thì người này đã và đang cứu cả toàn thế giới này). Vừa cảm động tuy nhiên cũng vô cùng xấu hổ vì nghĩ rằng đáng ra mình nên cứu nhiều người hơn, Schindler bật khóc. Khi những người dân Schindlerjuden (người Do Thái của Schindler) tỉnh dậy vào sáng sau, một người lính Xô Viết xuất hiện thông báo rằng họ đã được phóng thích.
Sau một số trong những cảnh miêu tả cuộc hành quyết Göth và tóm tắt cuộc sống của Schindler sau trận chiến tranh, bộ phim truyền hình đen trắng chuyển sang một cảnh có màu. Những người Schindlerjuden ngoài đời thật cùng những diễn viên lần lượt đặt những hòn đá lên nấm mộ của Schindler ở Jerusalem. Rồi bộ phim truyền hình kết thúc bằng cảnh Liam Neeson đặt một cặp hoa hồng lên mộ Schindler.
Diễn viênSửa đổi
Liam Neeson (ảnh thời gian năm 2012) thủ vai Oskar Schindler.
Nhà máy Oskar Schindler trên đường Lipowa Street 4 ở Kraków, năm 2014.
Nhân vật chínhSửa đổi
Diễn viên phụSửa đổi
Sản xuấtSửa đổi
Quá trình phát triểnSửa đổi
Pfefferberg, một trong những Schindlerjuden sống sót, đã đặt tiềm năng trong cuộc sống mình phải kể lại câu truyện về vị ân nhân cứu mạng. Năm 1963, Pfefferberg tìm cách thuyết phục hãng MGM sản xuất một bộ phim truyền hình tiểu sử nhờ vào cuộc sống thật của Oskar Schindler, với ngữ cảnh của Howard Koch, tuy nhiên không thành công xuất sắc.[7][8] Năm 1982, Thomas Keneally xuất bản cuốn tiểu thuyết lịch sử Schindler’s Ark, ông viết cuốn sách này sau khi có dịp gặp gỡ Pfefferberg ở Los Angeles vào năm 1980.[9] Chủ tịch MCA là Sid Sheinberg đã gửi cho đạo diễn Steven Spielberg một bài phản hồi của thời báo Tp New York Times về cuốn sách này. Spielberg, kinh ngạc lúc biết câu truyện về Schindler, đã hỏi đùa rằng đây liệu có phải là chuyện thật không. “Tôi bị thu hút bởi tính nghịch lý bên trong nhân vật này,” ông nói. “Điều gì đã xui khiến một người đàn ông đùng một cái mang toàn bộ những gì ông tìm kiếm được ra để cứu lấy những sinh mạng này?”[10] Spielberg bày tỏ mong ước với hãng Universal Pictures để sở hữ bản quyền cuốn tiểu thuyết này.[10] Trong buổi gặp mặt thứ nhất vào trong ngày xuân năm 1983, ông nói với Pfefferberg rằng ông sẽ khởi đầu khởi quay bộ phim truyền hình này trong mười năm nữa.[11] Trong phần đề tựa cuối phim, Pfefferberg được ghi công là cố vấn của phim dưới biệt danh Leopold Page.[1]
Vụ di tán người Do Thái ở quận Kraków vào tháng 3 năm 1943 là toàn cảnh của một đoạn 15 phút trong phim.
Spielberg không đủ can đảm chắc liệu ông đã đủ chín chắn để làm một bộ phim truyền hình về thời kỳ Holocaust.[11] Ông từng tìm cách đẩy dự án công trình bất Động sản này sang cho đạo diễn Roman Polanski, nhưng bị từ chối. Mẹ của Polanski bị giết ở Auschwitz, còn bản thân ông cũng từng phải chịu đựng và sống sót khỏi quận Kraków.[11] Polanski sau này đã đạo diễn bộ phim truyền hình chính kịch riêng của tớ về thời kỳ Holocaust, The Pianist, phát hành năm 2002. Spielberg cũng từng mời Sydney Pollack và Martin Scorsese tham gia, đấy là những người dân từng bày tỏ mong ước đạo diễn Bản list của Schindler vào năm 1988. Tuy nhiên, Spielberg lại cũng không chắc như đinh khi để Scorsese làm đạo diễn, bởi nếu thế thì “Tôi đã bỏ lỡ thời cơ để làm một điều gì đó về Holocaust cho con cháu và mái ấm gia đình tôi.”[12] Do đó, Spielberg khiến cho Scorsese đạo diễn phiên bản làm lại năm 1991 của cục phim truyền hình Cape Fear.[13] Billy Wilder đã và đang bày tỏ mong ước được đạo diễn bộ phim truyền hình, xem như một sự tưởng niệm tới mái ấm gia đình ông, bởi nhiều người đã từng bỏ mạng trong thời kỳ Holocaust.[14]
Spielberg ở đầu cuối quyết định hành động sẽ gắn bó với dự án công trình bất Động sản khi ông để ý rằng những người dân diệt trừ Holocaust đang nhận được sự để ý quan tâm đáng Tính từ lúc giới truyền thông. Với sự trỗi dậy của chủ nghĩa Quốc xã mới sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, ông lọ ngại rằng mọi người đang tỏ ra quá chịu đựng in như trong năm của thập niên 1930.[14] Sid Sheinberg bật đèn xanh cho dự án công trình bất Động sản với Đk trước tiên Spielberg phải làm phim Công viên kỷ Jura đã. Spielberg sau này phát biểu rằng, “Ông ấy biết một khi tôi đã đạo diễn Schindler thì tôi sẽ không còn thể làm Công viên kỷ Jura được nữa.”[2] Bộ phim được phục vụ một kinh phí góp vốn đầu tư hạn hẹp là 22 triệu USD, bởi phim về đề tài Holocaust thường không lãi lắm.[15][2] Spielberg đồng ý không lấy lương và gọi đó là “đồng xu tiền máu”,[2] và tin rằng tác phẩm sẽ thất bại về lệch giá.[2]
Năm 1983, Keneally được mời chuyển thể cuốn sách của tớ, và ông đã biến nó thành 220 trang ngữ cảnh. Phiên bản chuyển thể của ông triệu tập vào một trong những số trong những quan hệ của Schindler, và Keneally thừa nhận ông đang không thu gọn được diễn biến là mấy. Spielberg mời tiếp Kurt Luedtke, người chuyển thể ngữ cảnh cho phim Out of Africa, viết bản nháp mới. Bốn năm tiếp theo Luedtke bỏ cuộc bởi ông cảm thấy sự thay đổi trong trái tim của Schindler quá khó tin.[12] Trong thời kỳ làm đạo diễn, Scorsese đã thuê Steven Zaillian viết ngữ cảnh. Khi tiếp quản trở lại dự án công trình bất Động sản, Spielberg cảm thấy bản nháp dài 115 trang của Zaillian là quá ngắn, và yêu cầu ông kéo dãn ra thành 195 trang. Spielberg muốn diễn biến triệu tập hơn thế nữa vào những người dân Do Thái, và ông muốn sự thay đổi trong Schindler phải từ từ và không thật rõ ràng, không phải là một sự chuyển biến đột ngột hay bất thình lình. Ông kéo dãn phân cảnh giải tán khu quận, bởi ông “thực sự cảm thấy nên phải làm cho cảnh này gần như thể không thể xem được.”[12]
Tuyển diễn viênSửa đổi
Neeson thử vai Schindler từ rất sớm và chính thức được lựa chọn vào tháng 12 năm 1992, sau khi Spielberg thấy ông màn biểu diễn trong vở nhạc kịch Anna Christie ở Broadway.[16] Warren Beatty cũng tới một buổi đọc thử, nhưng Spielberg lo ngại rằng ông không thể bỏ được giọng địa phương và rằng ông sẽ mang tới “hiệu ứng ngôi sao 5 cánh điện ảnh”.[17] Kevin Costner và Mel Gibson bày tỏ mong ước đảm nhiệm vai Schindler, nhưng Spielberg quyết định hành động chọn một người ít được nghe biết hơn là Neeson, để sức mạnh ngôi sao 5 cánh của diễn viên sẽ không còn lấn át nhân vật.[18] Neeson cảm thấy Schindler ưa tỏ ra thông minh hơn Đức Quốc xã, những kẻ coi ông như thằng hề. “Họ không coi ông ra gì mấy, và ông đã tận dụng điều này hết mức.”[19] Để giúp ông sẵn sàng sẵn sàng cho vai diễn, Spielberg đã cho Neeson xem những đoạn phim của Steve Ross, CEO của Time Warner, người dân có ảnh hưởng được Spielberg so sánh với Schindler.[20]Ông cũng mang tới một băng thu âm lời nói của Schindler, để Neeson rèn luyện ngữ điệu của tớ.[21]
Fiennes được tuyển vào vai Amon Goeth sau khi Spielberg xem diễn xuất của anh trong A Dangerous Man: Lawrence After Arabia và Emily Brontë’s Wuthering Heights. Spielberg nói về buổi thử vai của Fiennes rằng “Tôi thấy sự gian ác một cách khêu gợi. Đó đều là những thứ tỉ mỉ nhất: có khoảng chừng thời hạn ngắn sự nhân từ rẽ ngang qua hai con mắt của anh ấy rồi ngay lập tức vụt biến.”[22] Fiennes đã tiếp tục tăng 28 pound (13kg) để vào vai này. Anh xem lại những phim thời sự lịch sử và rỉ tai với những người dân sống sót đã gặp Goeth. Để hoàn toàn có thể đảm nhiệm vai này, Fiennes nói “Tôi tiến gần hơn tới nỗi đau của anh ta. Ẩn sâu trong số đó là một con người nứt vỡ khốn khổ. Tôi cảm thấy xích míc về con người anh ta, thấy tiếc cho anh ta. Anh ta như một con búp bê dơ bẩn, méo mó được đưa cho tôi và rồi tôi gắn bó với anh ta một cách khác thường.”[22] Trang phục của Fiennes trông giống Goeth đến mức khi Mila Pfefferberg (một người sống sót sau Holocaust) gặp anh, bà đã run lên vì sợ hãi.[22]
Vai diễn Itzhak Stern (Ben Kingsley thủ vai) là yếu tố phối hợp giữa nhân viên cấp dưới kế toán Stern, quản trị và vận hành nhà máy sản xuất Abraham Bankier, và thư ký riêng của Goeth, Mietek Pemper.[23] Nhân vật này còn có vai trò như nhận thức và cái tôi thay đổi của Schindler.[24] Kingsley được nghe biết với diễn xuất giành giải Oscar, vai Gandhi trong bộ phim truyền hình tiểu sử năm 1982.[25]
Tóm lại, có 126 vai có lời thoại trong phim. Hàng nghìn diễn viên quần chúng được thuê vào trong quy trình quay phim.[12] Spielberg tuyển những diễn viên người Israel và Ba Lan cho những vai diễn người Đông Âu.[26] Nhiều diễn viên châu Âu tỏ ra miễn cưỡng khi phải mặc quân phục của SS, nhưng sau này một số trong những người dân đã cảm ơn Spielberg về trải nghiệm khi được đóng bộ phim truyền hình này.[17] Khi quay được một nửa bộ phim truyền hình, Spielberg đã nghĩ ra cái kết cho tác phẩm, trong số đó 128 người sống sót đã tới thể hiện sự kính trọng trước nấm mồ của Schindler ở Jerusalem. Các nhà sản xuất đã đi tìm những người dân Schindlerjuden và đưa họ đến hiện trường để quay cảnh này.[12]
Quay phimSửa đổi
Cảnh trong phim quay ở Krakow.
Quá trình quay phim chính khởi nguồn vào trong ngày một tháng 3 năm 1993 ở Kraków, Ba Lan, với kế hoạch dự kiến kéo dãn trong 75 ngày.[27] Đoàn làm phim đã tới quay ở những khu vực thực hoặc gần những khu vực có thực trong lịch sử, tuy nhiên họ phải phục dựng lại trại Płaszów ở một mỏ đá bỏ hoang, bởi ở vị trí của trại lúc bấy giờ hoàn toàn có thể nhìn thấy những tòa nhà cao tầng.[28][29] Các cảnh quay trong nhà tận nhà máy sản xuất đồ tráng men tại Kraków được quay ở một khu xưởng tương tự tại Olkusz, còn những cảnh quay thiết kế bên ngoài và những cảnh quay trên bậc cầu thang của nhà máy sản xuất thì được quay tận nhà máy sản xuất thật.[30] Đoàn làm phim không được phép quay rộng hoặc dựng toàn cảnh trên nền trại Auschwitz, do đó họ đã quay với một bản sao của trại này ở ngay trước cổng trại thật.[31] Có những vụ việc thể hiện sự bài Do Thái đã trình làng. Một phụ nữ vô tình gặp Fiennes trong bộ quân phục Đức Quốc xã đã nói rằng “người Đức là những con người tuyệt đẹp. Họ không giết những ai không đáng giết”.[22] Những hình tượng bài Do Thái được vẽ trên những bảng yết thị gần khu vực quay phim,[12] trong lúc Kingsley suýt cãi lộn với một nữ người marketing thương mại lớn tuổi nói tiếng Đức cố ý xúc phạm diễn viên người Israel Michael Schneider.[32] Tuy vậy, Spielberg phát biểu rằng vào Lễ Vượt Qua, “toàn bộ những diễn viên người Đức đã xuất hiện. Họ đội Mũ Sợ Chúa và đọc Haggadas, còn những diễn viên người Israel đã tới cạnh họ và lý giải với họ về nghi lễ. Thế là đại mái ấm gia đình những diễn viên đã quây quần cùng nhau, bỏ lại đằng sau những khác lạ về chủng tộc và văn hóa truyền thống.”[32]
“Tôi như bị cuộc sống riêng tát vào mặt. Sự lớn lên của tôi. Sự Do Thái của tôi. Câu chuyện ông bà tôi thường kể về Shoah. Và cuộc sống Do Thái của tôi như rót ngược vào trái tim tôi. Tôi đã khóc suốt.”
Steven Spielberg kể về trạng thái tình cảm của tớ trong lúc quay phim[33]
Quay phim Bản list của Schindler là một trải nghiệm đầy cảm xúc với Speiberg, đó là đề tài đã buộc ông phải hội ngộ những gì đã tận mắt tận mắt chứng kiến trong tuổi thơ của vị đạo diễn, ví như chủ nghĩa bài Do Thái mà ông từng gặp. Ông tỏ ra ngạc nhiên khi bản thân không khóc lúc tới thăm trại Auschwitz; ngược lại ông cảm thấy rất khó chịu và xúc phạm. Ông là một trong những thành viên đoàn làm phim không đủ can đảm ép mình tận mắt tận mắt chứng kiến khung cảnh lúc quay cảnh những người dân Do Thái lớn tuổi bị buộc phải khỏa thân và chạy loanh quanh để những bác sĩ Đức Quốc xã lựa chọn đưa theo Auschwitz.[34] Spielberg phản hồi rằng ông thấy mình in như một phòng viên hơn là một nhà làm phim ông chỉ huy thiết lập cảnh quay và rồi nhìn những yếu tố trình làng, như thể ông đang tận mắt tận mắt chứng kiến chúng hơn là làm một bộ phim truyền hình.[28] Một số nữ diễn viên đã bật khóc khi quay cảnh trong phòng tắm, trong số đó có một người được sinh ra trong trại triệu tập.[35] Spielberg, vợ ông Kate Capshaw, và năm người con của tớ thuê một căn phòng ở ngoại ô Kraków trong thời hạn quay phim.[36] Ông sau này đã cảm ơn vợ mình “vì đã cứu ông trong suốt chín mươi hai ngày liên tục… khi mọi thứ trở nên không chịu đựng nổi.”[37] Robin Williams gọi Spielberg đến để làm ông tươi tỉnh lên, bởi trên hiện trường không hề có yếu tố vui nhộn nào.[37] Mỗi tối Spielberg dành ra vài giờ sửa đổi và biên tập phim Công viên kỷ Jura được dự kiến trình chiếu vào tháng 6 năm 1993.[38]
Spielberg thỉnh thoảng sử dụng tiếng Đức và tiếng Ba Lan trong những cảnh quay để tái tạo lại cảm hứng của quá khứ. Ban đầu ông định làm phim bằng hai ngôn từ này, nhưng tiếp theo đó nhận định rằng “nếu chỉ bắt người xem đọc [phụ đề] thì bảo vệ an toàn và uy tín quá. Sẽ thật là có lỗi nếu bắt họ rời mắt khỏi màn hình hiển thị để chú tâm vào một trong những chiếc gì khác.”[17]
Kỹ thuật quaySửa đổi
Chịu ảnh hưởng từ bộ phim truyền hình tài liệu năm 1985 Shoah, Spielberg quyết định hành động không sử dụng bảng truyện để hoạch định bộ phim truyền hình mà sẽ quay nó như một bộ phim truyền hình tài liệu. Bốn mươi Phần Trăm những cảnh được quay bằng máy quay cầm tay, và kinh phí góp vốn đầu tư nhã nhặn cũng khiến bộ phim truyền hình chỉ được quay gấp trong vòng bảy mươi hai ngày.[39] Spielberg cảm thấy điều này mang lại cho bộ phim truyền hình “tính tự nhiên, một góc cạnh, và nó cũng giúp làm nổi trội chủ thể.”[40] Ông không xoay bằng Steadicams, cần cẩu máy quay hay ống kính zoom, “hay bất kể thứ gì khiến tôi cảm thấy như một sợi dây bảo vệ an toàn và uy tín.”[40] Việc làm này đã góp thêm phần hoàn thiện Spielberg, người vốn nhận định rằng trong quá khứ mình luôn coi trọng cách làm của những đạo diễn như Cecil B. DeMille và David Lean.[32]
Quyết định quay bộ phim truyền hình hầu hết bằng hai màu đen trắng càng làm nổi trội phong thái phim tài liệu, được nhà quay phim Janusz Kamiński so sánh với Chủ nghĩa biểu lộ Đức và Chủ nghĩa hiện thực mới Ý.[40] Kamiński nói rằng ông muốn tạo cảm hứng thời hạn không còn số lượng giới hạn trong phim, từ đó người xem sẽ “không cảm hứng được bộ phim truyền hình được làm từ bao giờ”.”[28] Spielberg quyết định hành động sử dụng màu đen trắng để tạo cảm hứng in như một bộ phim truyền hình tư liệu thực sự thời kỳ bấy giờ.[40] Chủ tịch hãng Universal Tom Pollock đề xuất kiến nghị vị đạo diễn quay bằng phim màu âm bản để sau này hoàn toàn có thể sản xuất những băng VHS có màu đem bán, như Spielberg không thích vô tình “làm đẹp hóa những sự kiện ấy.”[40]
Âm nhạcSửa đổi
Bài rõ ràng: Bản list của Schindler (nhạc phim)
John Williams, người từng nhiều lần cộng tác với Spielberg, biên soạn phần nhạc phim Bản list của Schindler. Nhà soạn nhạc tỏ ra khá ngạc nhiên về bộ phim truyền hình, và nhận định rằng đấy là một thử thách quá trở ngại vất vả. Ông nói với Spielberg, “Anh cần một nhà soạn nhạc giỏi hơn tôi cho bộ phim truyền hình này.” Spielberg vấn đáp, “Tôi biết. Nhưng những người dân như vậy chết cả rồi!”[41] Itzhak Perlman màn biểu diễn đoạn nhạc chủ đề cho phim bằng đàn vĩ cầm.[1]
Nói về phim Bản list của Schindler, Perlman nói:
Perlman: “Tôi không thể tin được anh ấy [John Williams] hoàn toàn có thể phối nhạc một cách chân thực như vậy, và tôi bảo, ‘John, cách làm ấy ở đâu ra thế?’ và anh ấy vấn đáp, ‘À tôi từng tập luyện với nhóm Fiddler on the Roof và cứ thế, mọi thứ đến rất tự nhiên’ và âm nhạc đã được tạo ra như vậy đấy.”
Phóng viên: “Khi người ta đến gặp và mời anh chơi nhạc cho phim Bản list của Schindler, có bao giờ anh nghĩ lại, hay anh đồng ý ngay, hay anh nói ‘Tôi không biết liệu tôi có mong ước chơi nhạc phim không’?
Perlman: “Không, tôi chưa bao giờ nghĩ như vậy, bởi trong trường hợp đặc biệt quan trọng này chủ đề của cục phim truyền hình có vai trò rất quan trọng với tôi, và tôi cảm hứng rằng mình hoàn toàn có thể góp phần đơn thuần và giản dị bằng phương pháp nắm vững lịch sử, cảm nhận lịch sử, và gián tiếp trở thành một nạn nhân của thời kỳ lịch sử ấy.”[42]
Trong trường đoạn quận của người Do Thái hiện giờ đang bị Đức Quốc xã phong tỏa, ca khúc dân gian “Oyfn Pripetshik” (“On the Cooking Stove”, tạm dịch Trên chiếc lò nướng) (tiếng Yid: אויפֿן פּריפּעטשיק) được một dàn đồng ca thiếu nhi thể hiện. Ca khúc thường được bà của Spielberg là Becky hát cho những cháu nghe.[43] Bản đơn ca bằng nhạc cụ clarinet xuất hiện trong phim được thu âm bởi Chuyên Viên về phong thái nhạc Klezmer tên là Giora Feidman.[44] Williams giành Giải Oscar cho nhạc phim hay nhất với phim Bản list của Schindler và này cũng là lần thứ năm ông nhận phần thưởng này..[45] Một số bản thu được lựa chọn từ phần nhạc nền của cục phim truyền hình được phát hành trong một album nhạc phim.[46]
Chủ đề và biểu tượngSửa đổi
Bộ phim khai thác chủ đề về sự việc trái chiều giữa thiện và ác, thông qua nhân vật đó đó là một “người Đức lương thiện”, một cách xây dựng nhân vật phổ cập của điện ảnh Hoa Kỳ.[47][14] Trong khi Goeth là một nhân vật gần như thể gian ác và đen tối hoàn toàn, Schindler đã tiếp tục tăng trưởng từ một kẻ ủng hộ chủ nghĩa phát xít sang một vị cứu tinh và một anh hùng.[48] Từ đó một chủ đề thứ hai đó là yếu tố chuộc lỗi đã phát sinh trong con người Schindler, biến ông trở thành một người cha mang trọng trách cứu sống hơn một nghìn người.[49][50]
Bộ phim khai thác chủ đề về sự việc trái chiều giữa điều thiện và điều ác, thông qua nhân vật đó đó là một “người Đức lương thiện”, một cách xây dựng nhân vật phổ cập của điện ảnh Hoa Kỳ.[47][14] Trong khi Goeth là một nhân vật gần như thể gian ác và đen tối hoàn toàn, Schindler đã tiếp tục tăng trưởng từ một kẻ ủng hộ chủ nghĩa phát xít sang một vị cứu tinh và một anh hùng.[48] Từ đó một chủ đề thứ hai đó là yếu tố chuộc lỗi đã phát sinh trong con người Schindler, biến ông trở thành một người cha mang trọng trách cứu sống hơn một nghìn người.[49][50]
Cô bé mặc áo choàng đỏSửa đổi
Schindler nhìn thấy một cô nàng mặc áo choàng đỏ trong lúc quận Kraków hiện giờ đang bị giải tán. Chiếc áo choàng đỏ là một trong những trường hợp khan hiếm sử dụng màu trong bộ phim truyền hình hầu hết là đen trắng.
Mặc dù bộ phim truyền hình được quay đen trắng, một chiếc áo choàng red color đã được sử dụng để phân biệt một cô nàng trong sự hỗn loạn khi quận Kraków bị giải tán. Sau đó, Schindler nhận ra xác của cô nàng hiện giờ đang bị mang đi thiêu hủy nhờ chiếc áo choàng đỏ mà cô nàng mặc. Spielberg nói rằng cảnh này tượng trưng cho việc những nhân vật lãnh đạo cao cấp nhất của chính phủ nước nhà Hoa Kỳ tuy nghe biết chính sách Holocaust nhưng không làm gì để ngăn ngừa. “Hình ảnh cô nàng mặc áo choàng đỏ đi xuống phố cũng rõ ràng không kém gì việc không còn hành động nào được đưa ra để đánh bom những tuyến phố sắt của Đức. Không có hành động nào được thực thi để làm đình trệ… sự hủy hoại của hiệp hội người Do Thái ở châu Âu,” ông nói. “Đó là thông điệp của tôi khi để cảnh đó có màu.”[51] Cây bút Andy Patrizio của IGN lưu ý rằng thời gian Schindler nhìn thấy xác chết của bé gái cũng đó đó là thời gian ông thay đổi, không hề coi “tro tàn và bồ hóng của những xác chết đang bốc cháy chất đầy trên chiếc xe hơi như một sự rất khó chịu.”[52] Giáo sư André H. Caron của Đại học Montréal tự hỏi phải chăng red color tượng trưng cho “sự vô tội, kỳ vọng hay máu đỏ của những người dân Do Thái hiện giờ đang bị quyết tử trong nỗi kinh hoàng của thời kỳ Holocaust.”[53]
Cô bé này do diễn viên nhí Oliwia Dąbrowska, lúc quay phim mới ba tuổi. Spielberg đề xuất kiến nghị Dąbrowska đừng xem bộ phim truyền hình này cho tới khi cô mười tám tuổi, nhưng năm mười một tuổi cô đã xem và đã rất “sợ hãi”.[54] Khi đã là người lớn và xem lại tác phẩm điện ảnh, cô tỏ ra tự hào với vai diễn mình thể hiện.[54] Vô tình, có một sự trùng hợp là nhân vật này cũng rất giống trường hợp của Roma Ligocka, người được nghe biết ở quận Kraków với chiếc áo choàng đỏ của tớ. Ligocka, khác với nhân vật hư cấu trên là bà đã sống sót qua thời kỳ Holocaust. Sau khi bộ phim truyền hình được phát hành, bà đã viết và xuất bản cuốn truyện của riêng mình, The Girl in the Red Coat: Hồi ký (bản dịch năm 2002).[55] Theo một cuộc phỏng ván những thành viên trong mái ấm gia đình trình làng vào năm 2014, cô nàng mặc áo choàng đỏ lấy cảm hứng từ một người dân ở Kraków tên là Genya Gitel Chil.[56]
Những cây nếnSửa đổi
Cảnh quay mở đầu của cục phim truyền hình là hình ảnh một mái ấm gia đình đang làm lễ Shabbat. Spielberg nói rằng “mở đầu bộ phim truyền hình với những cây nến đang rất được thắp… mở đầu bộ phim truyền hình với một buổi lễ Shabbat thông thường trước lúc sự tàn sát người Do Thái khởi đầu.”[12] Khi màu của phim mờ dần, nó mở đường cho một toàn thế giới đầy khói tượng trưng cho những xác người bị đốt ở trại Auschwitz. Chỉ khi tới cuối phim, khi Schindler được cho phép những công nhân của tớ làm lễ Shabbat, hình ảnh ánh lửa trên cây nến mới Phục hồi lại sự ấm áp. Theo Spielberg, chúng tượng trưng cho “chỉ một tia màu, và một tia kỳ vọng.”[12] Sara Horowitz, giám đốc Trung tâm Koschitzky về nghiên cứu và phân tích Do Thái của Đại học York, coi những cây nến là hình tượng của người Do Thái ở châu Âu, bị giết rồi thiêu ở bãi đốt. Hai cảnh này ghi lại sự mở đầu và kết thúc thời kỳ của Đức Quốc xã.[57] Cô chỉ ra rằng thông thường người phụ nữ trong mái ấm gia đình sẽ thắp cây nến Sabbath và ngâm nga Kiddush. Trong phim đàn ông lại là những người dân thực thi nghi lễ này, thể hiện không riêng gì có sự yếu thế của phụ nữ, mà còn là một sự yếu thế của toàn bộ đàn ông Do Thái khi so với đàn ông Aryan, nhất là Goeth và Schindler.[58]
Các rõ ràng khácSửa đổi
Với Spielberg, bản thân việc bộ phim truyền hình sử dụng hình ảnh đen trắng đã và đang tượng trưng cho Holocaust rồi: “Holocaust in như cuộc sống không còn ánh sáng. Với tôi hình tượng của sức sống là sắc tố. Đó là nguyên do vì sao một bộ phim truyền hình về đề tài Holocaust phải là phim đen trắng.”[59] Robert Gellately lưu ý rằng về tổng thể bộ phim truyền hình đã hoàn toàn có thể được xem phép ẩn dụ cho Holocaust, ban đầu những rõ ràng bạo lực còn lác đác để rồi dày đặc dần và ở đầu cuối lên đến mức đỉnh điểm của cái chết và sự hủy hoại. Ông cũng lưu ý sự tương đương giữa tình hình của những người dân Do Thái trong phim và cuộc tranh luận của Đức Quốc xã giữa hai lựa chọn: một là dùng người Do Thái như những lao động nô lệ hay tiêu diệt họ ngay tức khắc.[60] Theo Alan Mintz, giáo sư nghiên cứu và phân tích Holocaust tại Trường dòng Thần học Do Thái Hoa Kỳ ở Tp New York, nước cứu sống con người. Ông nhắc tới rõ ràng Schindler sắp xếp để phun vòi nước vào một trong những đoàn tàu Holocaust chở đầy những nạn nhân đang chờ chuyển đi, và cảnh ở Auschwitz, nơi phụ nữ được cho tắm rửa thực sự thay vì chỉ cho bơm khí vào.[61]
Phát hànhSửa đổi
Bộ phim khởi chiếu ngày 15 tháng 12 năm 1993. Tính đến thời gian phim ngừng chiếu tại những rạp vào trong ngày 29 tháng 9 năm 1994, nó đã thu về 96,1 triệu USD (ứng với 170triệu USD vào năm 2022)[62] ở Hoa Kỳ và trên 321,2 triệu USD trên toàn thế giới.[63] Ở Đức, phim được trình chiếu tại 500 rạp và thu hút trên 100.000 người tới xem chỉ riêng trong tuần thứ nhất[64] và tổng số đã có sáu triệu người theo dõi.[65] Phim khá phổ cập tại Đức và là một thành công xuất sắc trên toàn thế giới.[66]
Bản list của Schindler trình làng mạng lưới truyền hình Mỹ trên kênh NBC vào trong ngày 23 tháng 2 năm 1997. Không chiếu kèm quảng cáo, bộ phim truyền hình đứng thứ ba trong tuần thứ nhất với tỷ suất xem/chia sẻ đạt 20,9/31,[67] chỉ số Nielsen phim cao nhất Tính từ lúc lúc NBC phát sóng Công viên kỷ Jura vào tháng 5 năm 1995. Bộ phim khởi đầu chiếu trên khối mạng lưới hệ thống truyền hình công ở Israel vào Ngày tưởng niệm Holocaust năm 1998.[68]
Đĩa DVD phim được phát hành vào trong ngày 9 tháng 3 năm 2004 với hai phiên bản màn ảnh rộng và màn ảnh khá đầy đủ, loại đĩa sử dụng là đĩa hai mặt, bộ phim truyền hình được ghi trên mặt A và tiếp tục ở mặt B. Các tính năng đặc biệt quan trọng của đĩa gồm có một bộ phim truyền hình tài liệu do Spielberg trình làng.[69] Ngoài ra với hai định dạng trên còn tồn tại một bộ quà tặng phiên bản hạn chế, gồm có: phiên bản màn ảnh rộng của phim, tiểu thuyết của Keneally, nhạc phim trên đĩa CD, một tấm thẻ senitype, và một cuốn sách ảnh nhỏ có tiêu đề Schindler’s List: Images of the Steven Spielberg Film (Bản list của Schindler: Hình ảnh từ bộ phim truyền hình của Steven Spielberg), toàn bộ được đóng gói trong một chiếc hộp bằng nhựa trong suốt.[70] Bộ quà tặng đĩa laze là một phiên bản hạn chế khác gồm có nhạc phim, cuốn tiểu thuyết gốc và một quyển sách ảnh đặc biệt quan trọng.[71] Để kỷ niệm 20 năm trình làng, bộ phim truyền hình được phát hành trên đĩa Blu-ray vào trong ngày 5 tháng 3 năm trước đó đó.[72]
Sau thành công xuất sắc của cục phim truyền hình, Spielberg xây dựng Quỹ Lịch sử Trực quan của những nạn nhân sống sót thời kỳ Shoah, một tổ chức triển khai phi lợi nhuận nhằm mục đích mục tiêu phục vụ kho tàng trữ những câu truyện của nhiều người sống sót kể lại nhất hoàn toàn có thể, để bảo tồn chúng lâu dài. Ông vẫn tiếp tục duy trì kinh phí góp vốn đầu tư cho việc làm này.[73] Spielberg dùng lợi nhuận của cục phim truyền hình để sản xuất một số trong những phim tài liệu có liên quan, gồm có Anne Frank Remembered (1995), The Lost Children of Berlin (1996), và The Last Days (1998).[74]
Phản hồiSửa đổi
Đánh giá chuyên mônSửa đổi
Bản list của Schindler nhận được nhiều nhìn nhận tích cực rộng tự do của toàn bộ giới trình độ và người theo dõi, nhiều người nhìn nhận đấy là một thành tựu điện ảnh xuất sắc.[75] Một số người Mỹ có tiếng như dẫn chương trình đàm thoại Oprah Winfrey và Tổng thống Bill Clinton đã khuyến khích người dân xem phim này.[3][76] Các nhà lãnh đạo của nhiều vương quốc trên toàn thế giới đã và đang xem bộ phim truyền hình và một số trong những người dân đã có những cuộc gặp riêng với đạo diễn Spielberg.[3] Trang web tổng hợp kết quả nhìn nhận Rotten Tomatoes cho biết thêm thêm có 97% những nhà phê bình nhìn nhận tích cực về bộ phim truyền hình nhờ vào 95 bài phê bình, với điểm số trung bình là 9/10. Lời nhận xét chung của trang này viết: “Bản list của Schindler hòa quyện tội ác ghê rợn của chủ trương tàn sát người Do Thái của Đức quốc xã với chủ nghĩa nhân đạo rất tế nhị của Steven Spielberg để tạo ra một siêu phẩm gây xúc động.”[77] Metacritic, trang chuyên đưa ra điểm số nhìn nhận trung bình cho những phim trên thang điểm 100 nhờ vào những phản hồi số 1 của những nhà phê bình chính thống, cho bộ phim truyền hình 94 điểm nhờ vào 26 nhìn nhận và kết luận “được hầu hết những nhà phê bình khen ngợi.”[78] Stephen Schiff, nhà báo viết cho tờ The New Yorker gọi đấy là bộ phim truyền hình chính kịch lịch sử xuất sắc nhất về đề tài diệt chủng người Do Thái, một bộ phim truyền hình sẽ “ghi dấu ấn trong lịch sử văn hóa truyền thống và sẽ tồn tại mãi.”[79] Roger Ebert gọi đấy là tác phẩm điện ảnh xuất sắc nhất của Spielberg, “những quy trình diễn xuất, đạo diễn, biên kịch và thưởng thức thường rất tuyệt vời.”[80] Terrence Rafferty, cũng viết cho tờ The New Yorker, ca tụng “sự táo bạo trong cách kể chuyện cũng như hình ảnh, và sự thẳng thắn trong cảm xúc.” Ông cũng nhắc tới diễn xuất của Neeson, Fiennes, Kingsley, và Davidtz với việc tán dương đặc biệt quan trọng,[81] và gọi cảnh quay trong phòng tắm tập thể của trại triệu tập Auschwitz “là đoạn phim ghê sợ nhất từng được thực thi.”[82] James Verniere của báo Boston Herald nhận định rằng bộ phim truyền hình có phần dè dặt và thiếu yếu tố gây xúc động mạnh mẽ và tự tin, như vẫn coi đấy là một “bộ phim truyền hình đáng giá thêm vào hàng ngũ những tác phẩm về thời kỳ diệt chủng người Do Thái.”[83] Trong bài phê bình của tớ cho tạp chí Tp New York Review of Books, nhà phê bình người Anh John Gross bày tỏ thái độ lo ngại khi diễn biến của phim hiện giờ đang bị mọi người đa cảm hóa quá mức cần thiết và sự đa cảm hóa này “đang rất được đặt không đúng chỗ. Speilberg thể hiện quan điểm đạo đức rõ ràng và tóm gọn cảm xúc khá đầy đủ trong tác phẩm của tớ. Bộ phim là một thành công xuất sắc rực rỡ.”[84] Mintz lưu ý rằng kể cả những nhà phê bình khó tính nhất cũng phải ca tụng “những hình ảnh xuất sắc” trong mười lăm phút phim miêu tả lại cảnh di tán người Do Thái khỏi Kraków. Ông miêu tả đoạn phim này là rất “chân thực” và “tuyệt vời”.[85] Ông chỉ ra rằng bộ phim truyền hình đã góp thêm phần quan trọng trong việc thức tỉnh mọi người nhớ về những tội ác của chính sách Holocaust cũng như nhận thức của những thế hệ sau về quy trình lịch sử này khi những nhân chứng sống sót đang lần lượt qua đời, cắt đứt dần sợi dây link với thảm họa trước kia.[86] Khi phim được phát hành tại Đức đã gây ra những cuộc tranh luận rộng tự do về việc tại sao hầu hết người dân Đức hồi đó không làm gì để giúp người Do Thái.[87]
Cũng có nhiều lời chỉ trích bộ phim truyền hình, hầu hết tới từ giới nghiên cứu và phân tích chứ không phải truyền thông đại chúng.[88] Horowitz chỉ ra rằng hầu hết những hoạt động và sinh hoạt giải trí sinh hoạt của người Do Thái trong khu triệu tập chỉ đơn thuần và giản dị là cho vay vốn ngân hàng tiền, thanh toán giao dịch thanh toán trên thị trường đen, hay cất giấu tài sản, từ đó tạo ra một chiếc nhìn “khuôn mẫu” về đời sống của người Do Thái thời kỳ này.[89] Horowitz cũng nhận định rằng tuy nhiên cách tái hiện phụ nữ trong bộ phim truyền hình phản ánh đúng chuẩn tư tưởng của Đức quốc xã, tuy nhiên vị thế thấp kém của tớ và sợi dây link giữa bạo lực và tình dục không được đề cập đúng mức.[90] Giáo sư lịch sử Omer Bartov của Đại học Brown lưu ý rằng hình thể to lớn và tư tưởng mạnh mẽ và tự tin của những nhân vật Schindler và Goeth đã làm lu mờ hình ảnh những nạn nhân Do Thái, vốn trong bộ phim truyền hình là những con người nhỏ bé, chạy lon ton xung quanh và luôn trong trạng thái sợ hãi nền tảng đơn thuần của trận chiến giữa điều thiện và điều ác.[91] Các tiến sỹ Samuel J. Leistedt và Paul Linkowski công tác thao tác tại Đại học Université libre de Bruxelles gọi Goeth là một nhân vật loạn thần cổ xưa trong điện ảnh.[92]
Horowitz chỉ ra rằng sự phân hóa Một trong những người dân tốt “tuyệt đối” và những kẻ xấu “tuyệt đối” khiến người đọc bỏ qua sự thực rằng những kẻ thực thi dưới chính sách Holocaust thực ra cũng chỉ là những người dân thông thường; bộ phim truyền hình không đào sâu vào cách hầu hết người Đức thời bấy giờ nhận thức hay ủng hộ/ phản đối chính sách Holocaust.[93] Tác giả Jason Epstein phản hồi rằng bộ phim truyền hình gây ra sự hiểu nhầm rằng nếu người ta thông minh hoặc như mong ước thì hoàn toàn có thể sống sót sau chính sách diệt chủng; trong lúc đây không phải là tác nhân chính.[94] Spielberg đáp lại những người dân chỉ trích cảnh Schindler bật khóc khi ông tạm biệt công nhân của tớ là quá uỷ mị bằng phương pháp chỉ ra rằng cảnh quay này được thực thi để mang lại cảm hứng về sự việc mất mát và cho những người dân đọc thời cơ bày tỏ sự xót xa cùng những nhân vật trên màn ảnh.[95]
Đánh giá từ những nhà làm phim khácSửa đổi
Bản list của Schindler nhận được những nhìn nhận rất tích cực từ những đồng nghiệp của Spielberg. Nhà làm phim Billy Wilder viết một lá thư khen ngợi dài dành riêng cho Spielberg trong số đó ông viết, “Họ không thể tìm kiếm được một người nào tốt hơn. Bộ phim này là một sự hoàn hảo nhất tuyệt đối.”[14] Polanski, người từng từ chối thời cơ đạo diễn bộ phim truyền hình, sau này đã phản hồi, “Tôi chắc như đinh không thể làm tốt được như Spielberg bởi tôi không khách quan bằng anh ấy.”[96] Ông coi Bản list của Schindler đã có ảnh hưởng lớn tới bộ phim truyền hình Death and the Maiden năm 1995 của tớ.[97] Thành công của Bản list của Schindler đã khiến nhà làm phim Stanley Kubrick từ bỏ dự án công trình bất Động sản phim về Holocaust của tớ mang tên thường gọi Aryan Papers, vốn dự tính sẽ nói về một cậu bé người Do Thái và người cô của tớ thoát khỏi trận chiến tranh nhờ lẩn trốn qua Ba Lan và vờ vịt là người Công giáo.[98] Khi nhà biên kịch Frederic Raphael gợi ý rằng Bản list của Schindler đã thể hiện tốt hình ảnh của chính sách Holocaust, Kubrick phản hồi, “Anh nghĩ nó nói về Holocaust ư? Nó dường như nói về thắng lợi thì phải? Holocaust phải là hình ảnh 6 triệu người bị giết. Bản list của Schindler lại nói về khoảng chừng 600 người thoát nạn.”[98]
Nhà làm phim Jean-Luc Godard phản đối Spielberg vì đã làm phim để thu lợi nhuận từ một thảm kịch trong lúc đó người vợ của Schindler là Emilie Schindler, đang phải sống nghèo khổ ở Argentina.[99] Keneally phản ứng lại trước cáo buộc rằng bà vợ Schindler không được trả công cho những góp phần của tớ, “hay tối thiểu là chính bới tôi mới gần đây đã tự tay gửi cho Emilie một tấm séc.”[100] Ông cũng xác nhận với văn phòng của Spielberg rằng khoản thù lao đã được gửi từ đây.[100] Nhà làm phim Michael Haneke chỉ trích trường đoạn những người dân phụ nữ trong nhà máy sản xuất của Schindler vô tình bị chuyển tới Auschwitz và bắt tắm rửa: “Có một cảnh trong phim mà chúng tôi không rõ đó là khí gas hay nước được phun ra từ những vòi hoa sen. Bạn chỉ hoàn toàn có thể làm như vậy với những người dân theo dõi ngây thơ như ở Hoa Kỳ mà thôi. Đó là cách sắp xếp không hợp lý. Speilberg có ý tốt nhưng nó không nói lên điều gì cả.”[101]
Bộ phim bị chỉ trích bởi nhà làm phim và giáo sư Claude Lanzmann, đạo diễn bộ phim truyền hình tài liệu dài 9 tiếng về Holocaust Shoah, ông gọi bản list của Schindler là “sự phóng đại hào nhoáng” và “bóp méo” thực sự lịch sử. Lanzmann kịch liệt phản đối Spielberg đã nhìn Holocaust dưới con mắt của một người Đức. Cho rằng bộ phim truyền hình của tớ mới đề cập đúng mức về thời kỳ Holocaust, Lanzmann phàn nàn, “Tôi chân thành nghĩ rằng có thuở nào kỳ trước Shoah, và thuở nào kỳ sau Shoah, và rằng sau Shoah có nhiều thứ sẽ không còn thể làm lại được nữa. Nhưng Speilberg vẫn tiếp tục làm.”[102] Spielberg chỉ trích ngược lại và nhận định rằng Lanzmann muốn mình “là tiếng nói duy nhất về thời kỳ Holocaust. Tôi lấy làm ngạc nhiên khi thấy rằng muốn tái hiện thực sự thì phải trải qua mọi cảm xúc đau đớn.”[103]
Phản ứng của hiệp hội người Do TháiSửa đổi
Tại hội nghị chuyên đề tổ chức triển khai năm 1994 Village Voice về bộ phim truyền hình này, nhà sử học Annette Insdorf đã kể lại việc mẹ ông, một người sống sót qua ba trại triệu tập, tỏ ra biết ơn vì câu truyện về thời kỳ Holocaust đã được tái hiện trong một bộ phim truyền hình lớn được theo dõi rộng tự do.[104] Tác giả Do Thái người Hungary Imre Kertész, một người sống sót qua thời kỳ Holocaust, nhận định rằng những người dân không trực tiếp trải qua thì khó lòng thuật lại đúng chuẩn môi trường tự nhiên vạn vật thiên nhiên sống đời thường ở trong trại triệu tập của Đức Quốc xã. Mặc dù ca tụng Spielberg đã mang câu truyện tới một số trong những lượng lớn những người dân theo dõi, ông nhận định rằng cảnh cuối phim tại nghĩa trang đã bỏ qua những di chứng kinh khủng mà những người dân sống sót phải chịu đựng và khiến mọi người lầm tưởng rằng những người dân sống sót không phải chịu đựng đau đớn tinh thần.[105] Giáo sĩ Do Thái Uri D. Herscher nhận định rằng bộ phim truyền hình là một sự minh họa “cảm động” và “đầy kỳ vọng” của chủ nghĩa nhân đạo.[106] Norbert Friedman lưu ý rằng, như mọi người sống sót qua thời kỳ Holocaust, ông tỏ thái độ nhất trí với Spielberg.[107] Albert L. Lewis, giáo sĩ Do Thái và là thầy giáo của Spielberg hồi ông còn nhỏ coi bộ phim truyền hình là “món quà của Steven dành riêng cho mẹ ông, cho những người dân hàng xóm của ông, và theo một cách nào đó cho chính ông. Giờ đây ông đã là một con người hoàn hảo nhất.”[106]
Giải thưởngSửa đổi
Bản list của Schindler xuất hiện trên nhiều list “những phim hay nhất”, trong số đó có list 100 phim xuất sắc nhất của tạp chí Time do những nhà phê bình Richard Corliss và Richard Schickel tuyển chọn,[4] cuộc thăm dò 100 phim xuất sắc nhất của thế kỷ thực thi năm 1995 của công ty Time Out,[108] và “100 phim phải xem của thế kỷ” của Leonard Maltin.[5] Vatican xếp Bản list của Schindler nằm trong số 45 phim quan trọng nhất từng được sản xuất.[109] Một cuộc thăm dò của Channel 4 xếp Bản list của Schindler nằm trong số chín bộ phim truyền hình hay nhất mọi thời đại,[6] và xếp thứ tư trong cuộc thăm dò những phim về đề tài trận chiến tranh hay nhất vào năm 2005 của đài.[110] Phim được bầu chọn là bộ phim truyền hình hay nhất của năm 1993 bởi nhiều nhà phê bình ví như James Berardinelli,[111] Roger Ebert,[80] và Gene Siskel.[112] Đánh giá rằng bộ phim truyền hình “có mức giá trị quan trọng về văn hóa truyền thống”, Thư viện Quốc hội Mỹ chọn bộ phim truyền hình để bảo tồn tại Viện tàng trữ phim vương quốc.[113]
Spielberg giành Trao Giải của Hội những đạo diễn Hoa Kỳ do đạo diễn xuất sắc nhất Phim chiếu rạp cho tác phẩm của tớ,[114] và đồng nhận Trao Giải của Hội những nhà sản xuất Hoa Kỳ cho phim chiếu rạp xuất sắc nhất cùng với những nhà đồng sản xuất là Branko Lustig và Gerald R. Molen.[115] Steven Zaillian nhận Trao Giải của Hội những nhà văn Hoa Kỳ cho ngữ cảnh của tớ.[116] Phim giành phần thưởng của Cộng đồng những nhà phê bình phim vương quốc Hoa Kỳ cho Phim hay nhất, đạo diễn xuất sắc nhất, Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất, và Quay phim đẹp tuyệt vời nhất.[117] Phim giành phần thưởng của Hội phê bình phim Tp New York cho phim hay nhất, nam diễn viên phụ xuất sắc nhất, và quay phim xuất sắc nhất.[118] Phim giành phần thưởng của Thương Hội phê bình phim Los Angeles cho phim hay nhất, quay phim hay nhất (đồng giải với phim The Piano), Thiết kế sản xuất xuất sắc nhất.[119] Phim còn giành nhiều giải và được đề cử ở nhiều khuôn khổ khác trên toàn toàn thế giới.[120]
Các phần thưởng lớn
Hạng mục
Đối tượng
Kết quả
Giải Oscar lần thứ 66[45]Phim hay nhất
Đoạt giải
Đạo diễn xuất sắc nhất
Steven Spielberg
Đoạt giải
Kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất
Steven Zaillian
Đoạt giải
Nhạc phim hay nhất
John Williams
Đoạt giải[b]Dựng phim xuất sắc nhất
Michael Kahn
Đoạt giải
Quay phim xuất sắc nhất
Janusz Kamiński
Đoạt giải
Chỉ đạo nghệ thuật và thẩm mỹ và làm đẹp xuất sắc nhất
Đoạt giải
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất
Liam Neeson
Đề cử
Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất
Ralph Fiennes
Đề cử
Âm thanh hay nhất
Đề cử
Hóa trang xuất sắc nhất
Đề cử
Thiết kế phục trang đẹp tuyệt vời nhất
Anna B. Sheppard
Đề cử
Giải ACE Eddie[121]Biên tập phim xuất sắc nhất
Michael Kahn
Đoạt giải
Giải BAFTA[122]Phim hay nhất
Đoạt giải
Đạo diễn xuất sắc nhất
Steven Spielberg
Đoạt giải
Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất
Ralph Fiennes
Đoạt giải
Kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất
Steven Zaillian
Đoạt giải
Nhạc phim hay nhất
John Williams
Đoạt giải
Dựng phim xuất sắc nhất
Michael Kahn
Đoạt giải
Quay phim xuất sắc nhất
Janusz Kamiński
Đoạt giải
Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất
Ben Kingsley
Đề cử
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất
Liam Neeson
Đề cử
Hóa trang và làm tóc xuất sắc nhất
Đề cử
Thiết kế sản xuất xuất sắc nhất
Allan Starski
Đề cử
Thiết kế phục trang xuất sắc nhất
Anna B. Sheppard
Đề cử
Âm thanh hay nhất
Đề cử
Trao Giải của Thương Hội phê bình phim Chicago[123]Phim hay nhất
Đoạt giải
Đạo diễn xuất sắc nhất
Steven Spielberg
Đoạt giải
Kịch bản xuất sắc nhất
Steven Zaillian
Đoạt giải
Quay phim xuất sắc nhất
Janusz Kamiński
Đoạt giải
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất
Liam Neeson
Đoạt giải
Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất
Ralph Fiennes
Đoạt giải
Giải Quả cầu vàng[124]Phim chính kịch
Đoạt giải
Đạo diễn xuất sắc nhất
Steven Spielberg
Đoạt giải
Kịch bản hay nhất
Steven Zaillian
Đoạt giải
Nam diễn viên phim chính kịch xuất sắc nhất
Liam Neeson
Đề cử
Nam diễn viên điện ảnh phụ xuất sắc nhất
Ralph Fiennes
Đề cử
Nhạc phim hay nhất
John Williams
Đề cử
Công nhận của Viện phim Mỹ
Năm
Danh sách
Kết quả
1998
Danh sách 100 phim hay nhất của Viện phim Mỹ
#9[125]2003
Danh sách 100 anh hùng và kẻ phản diện của Viện phim Mỹ
Oskar Schindler #13 anh hùng; Amon Goeth #15 kẻ phản diện[126]2005
Danh sách 100 câu thoại đáng nhớ trong phim của Viện phim Mỹ
“Danh sách này là một việc thiện tuyệt đối. Danh sách ấy đó đó là yếu tố sống.” (The list is an absolute good. The list is life) đề cử[127]2006
Danh sách 100 phim truyền cảm hứng của Viện phim Mỹ
#3[128]2007
Danh sách 100 phim hay nhất của Viện phim Mỹ (phiên bản kỷ niệm 10 năm)
#8[129]2008
Danh sách 10 phim hay nhất thuộc 10 thể loại của Viện phim Mỹ
#3 Phim sử thi[130]
Tranh cãiSửa đổi
Tấm đài tưởng niệm ở Emalia, nhà máy sản xuất của Schindler tại Kraków.
Khi được chiếu trên truyền hình Mỹ vào năm 1997, bộ phim truyền hình hầu như không biến thành cắt gọt hay sửa đổi gì. Đây là bộ phim truyền hình phát sóng trên truyền hình thứ nhất bị xếp hạng TV-M (lúc bấy giờ là TV-MA) theo khối mạng lưới hệ thống nhìn nhận nội dung truyền hình được thiết lập một năm trước đó đó.[131] Thượng nghị sĩ Tom Coburn, sau này là nghị sĩ của bang Oklahoma, đã phát biểu rằng với việc phát sóng bộ phim truyền hình này, đài NBC đã đưa nội dung truyền hình “tới số lượng giới hạn thấp nhất trước đó chưa từng có, với những cảnh khỏa thân trực diện, bạo lực và những hành vi báng bổ”, và coi rằng đó là một sự xúc phạm tới “những người dân dân có đầu óc biết tâm ý ở khắp nơi”.[132] Trước phản ứng rất khó chịu từ những thành viên của toàn bộ Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa, Coburn phải xin lỗi và nói rằng: “Câu nói của tôi có ý tốt, nhưng tôi rõ ràng đã mắc sai lầm không mong muốn khi xét về hậu quả của việc nói ra những điều tôi muốn nói.” Ông cũng lý giải rõ ý của tớ rằng bộ phim truyền hình đáng lẽ nên chiếu vào đêm muộn, lúc không hề “nhiều trẻ con thức xem truyền hình mà không được bố mẹ trấn áp”.[133]
Tranh cãi cũng nổ ra ở Đức khi phim được chiếu trên truyền hình của kênh ProSieben. Phong trào phản đối mạnh mẽ và tự tin đã nổ ra khi đài truyền hình định phát sóng bộ phim truyền hình với hai kỳ quảng cáo giữa chừng. Như một giải pháp thỏa hiệp, đài truyền hình chỉ cho một đoạn nghỉ giữa chừng để chiếu thời sự và một vài quảng cáo ngắn.[65]
Ở Philippines, giám đốc kiểm duyệt Henrietta Mendez đã yêu cầu cắt bỏ ba cảnh chứa hình ảnh quan hệ tình dục và khỏa thân nữ trước lúc được cho phép chiếu bộ phim truyền hình tại những rạp. Spielberg phản đối và khước từ chiếu bộ phim truyền hình của ông tại những rạp ở Philippines nữa, buộc thượng nghị viện nước này phải ra lệnh hủy bỏ quyết định hành động của hội đồng kiểm duyệt. Tổng thống Fidel V. Ramos phải tự mình can thiệp và yêu cầu rằng bộ phim truyền hình hoàn toàn có thể được chiếu nguyên vẹn không cắt gọt cho những người dân theo dõi trên 15 tuổi.[134]
Theo nhà làm phim người Slovakia Juraj Herz, đoạn phim có một nhóm phụ nữ lộn xộn trong phòng tắm có ống gas được lấy nguyên đến từng khung hình từ bộ phim truyền hình Zastihla mě noc (Night Caught Up with Me, 1986) của ông. Herz muốn kiện nhưng không còn đủ tiền để chi trả cho nỗ lực này.[135]
Ca khúc Yerushalayim Shel Zahav (“Jerusalem of Gold”) xuất hiện trong album nhạc phim và được chơi ở gần cuối phim. Điều này đã gây ra một số trong những tranh cãi ở Israel, bởi ca khúc (được viết năm 1967 bởi Naomi Shemer) được nhiều người xem là ca khúc không chính thức của thắng lợi của Israel trong Chiến tranh sáu ngày. Trong những phiên bản tiếng Israel của cục phim truyền hình, bài hát này được thay thế bằng ca khúc Halikha LeKesariya (“A Walk to Caesarea”) của Hannah Szenes, một ca khúc phản đối trận chiến tranh toàn thế giới thứ hai.[136]
Ghi chúSửa đổi
Chú thíchSửa đổi
Tham khảoSửa đổi
Liên kết ngoàiSửa đổi
Wikiquote có sưu tập danh ngôn về:
Bản list của Schindler
Trao Giải
Tiềnnhiệm
Unforgiven
Giải Oscar cho phim hay nhất
1993
Kếnhiệm
Forrest Gump
Tiềnnhiệm
Scent of a Woman
Giải Quả cầu vàng cho phim chính kịch hay nhất
1993
Tiềnnhiệm
Howards End
Giải BAFTA cho phim hay nhất
1993
Kếnhiệm
Four Weddings and a Funeral
Bản list của Schindler là một nội dung bài viết tinh lọc của Wikipedia tiếng Việt.
Mời bạn xem phiên bản đã được bầu chọn vào trong ngày 29 tháng 3 năm 2015 và so sánh sự khác lạ với phiên bản hiện tại.
Reply
5
0
Chia sẻ
Chia Sẻ Link Cập nhật Danh Sách của Schindler PDF miễn phí
Bạn vừa tìm hiểu thêm Post Với Một số hướng dẫn một cách rõ ràng hơn về Clip Danh Sách của Schindler PDF tiên tiến và phát triển nhất và Chia Sẻ Link Cập nhật Danh Sách của Schindler PDF Free.
Hỏi đáp vướng mắc về Danh Sách của Schindler PDF
Nếu sau khi đọc nội dung bài viết Danh Sách của Schindler PDF vẫn chưa hiểu thì hoàn toàn có thể lại Comment ở cuối bài để Admin lý giải và hướng dẫn lại nha
#Danh #Sách #của #Schindler #PDF